Từ sáng tạo đến thập tự giá
Văn chương khôn ngoan:
Các Thi thiên, Phần I
Mục sư Bob Deffinbaugh
Phần giới thiệu:
Hôm nay đúng là ngày sinh nhật của em gái tôi. Ngoài ra, Lễ Phục Sinh (có lẽ tốt hơn phải nói là “Chúa nhật phục sinh”) chỉ còn cách có một tuần thôi. Đây là thời điểm khi bộ phận lo thiệp chúc mừng của siêu thị sẽ rất bận rộn với những khách hàng tìm kiếm đúng thứ thiệp họ mong muốn. Chúng tôi mua thiệp chúc mừng vì có ai đó đã ghi lời chúc rất hay vào tư tưởng của chúng ta hơn là chúng ta làm việc ấy. Thiệt là kỳ lạ, mặc dù phần nhiều thiệp chúc mừng không thuộc vào loại “Hallmark Card” theo truyền thống – là thứ thiệp dành cho người nào “quan tâm để gửi đi lời chúc hay nhất”. Ngày nay, người ta đúng là có khuynh hướng gửi thứ thiệp có tính cách hài hước khi họ cần phải gửi cho một nhân vật quan trọng, đặc biệt ngày sinh nhật, ngày kỷ niệm, và thậm chí thứ thiệp cho người yêu nữa. Khi các mối quan hệ đậm sâu hơn, người ta có những cảm xúc mạnh mẽ, và họ phấn đấu để tìm đúng những câu phải lẽ để trao đối với họ. Giờ đây, có nhiều người không thực sự muốn có mối quan hệ thân mật, vì vậy họ gửi đi loại thiệp có tính hóm hỉnh, thứ thiệp không bao giờ nhận lại được gì dưới bộ mặt quan hệ ấy.
Sách Thi thiên là thứ đại loại giống như bộ phận “Hallmark Cards” trong Kinh thánh vậy. Ở đây, chúng ta tìm thấy những lời lẽ tỏ ra những cảm xúc sâu sắc và mạnh mẽ nhất của mình, vô luận là hoàn cảnh nào. Một số Thi thiên bày tỏ sự vui mừng ngợi khen vì những hành động giải cứu của Đức Chúa Trời; nhiều bài khác tỏ ra sự ăn năn và xưng tội; vẫn có những bài khác nữa kêu la với Đức Chúa Trời vì Ngài dường như không biết gì về hoàn cảnh của tác giả. Toàn bộ sắc màu tình cảm của con người đã được tỏ ra trong sách Thi thiên. Chính vì lý do nầy mà nhiều người nam người nữ đã xây sang sách Thi thiên trải qua nhiều thế kỷ. Sách Thi thiên tỏ ra những cảm xúc sâu sắc nhất của tấm lòng.
Tôi có một phần việc rất khó khăn – tôi phải nổ lực xử lý với sách Thi thiên trong hai bài học. Trong bài học nầy, tôi sẽ cố gắng cung ứng một nhận định rộng rãi về các Thi thiên, tìm cách thuyết phục bạn thấy được quyển sách nầy rất có giá trị cho thời gian và sự lưu ý của bạn. Tôi sẽ nổ lực để tỏ ra lý do tại sao sách Thi thiên rất quan trọng như thế và những đóng góp có một không hai mà chúng có cho cả Kinh thánh. Tôi sẽ cố gắng tóm tắt một số đặc điểm của sách Thi thiên. Như vậy, chúng ta sẽ nhìn vắn tắt vào một Thi thiên, ấy là Thi thiên 73. Sau cùng, tôi sẽ tìm cách chỉ ra sách Thi thiên áp dụng cho chúng ta như thế nào và cho sự thờ phượng của chúng ta ngày nay.
Tại sao sách Thi thiên là quan trọng?
Sau sách Êsai, sách Thi thiên là sách Cựu Ước được trưng dẫn thường xuyên nhất trong Tân Ước. Chúa Jêsus chỉ ra rằng sách Thi thiên đã nói về Ngài:
“Đoạn, Ngài phán rằng: Ấy đó là điều mà khi ta còn ở với các ngươi, ta bảo các ngươi rằng mọi sự đã chép về ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng các Thi Thiên phải được ứng nghiệm” (Luca 24:44).
Trên thập tự giá ở đồi Gôgôtha, Chúa Jêsus đã kêu la bằng lời lẽ của Thi thiên 22:1. Các sứ đồ đã sử dụng các Thi thiên để minh chứng rằng Chúa Jêsus là Đấng Mêsi (xem Công Vụ các Sứ Đồ 2:24-36; 12:29-39). Sách Thi thiên cũng đóng một vai quan trọng trong Hội thánh đầu tiên:
“Hỡi anh em, nên nói thể nào? Khi anh em nhóm lại với nhau, trong anh em, ai có bài ca, hoặc bài giảng dạy, hoặc lời tỏ sự kín nhiệm, hoặc nói tiếng lạ, hoặc giải tiếng lạ chăng? Hãy làm hết thảy cho được gây dựng” (I Côrinhtô 14:26).
“Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa” (Êphêsô 5:18-19).
“Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời “(Côlôse 3:16).
Sách Thi thiên rất quan trọng xuyên suốt lịch sử của Hội thánh. Chrysostom và Augustine có mặt giữa vòng những người đã viết loại sách chú giải về sách Thi thiên. John Calvin đã nói như vầy về sách Thi thiên:
“Quyển sách nầy tôi không muốn kể đấy là một quyền sách phân tích tất cả các chi tiết của linh hồn; vì chẳng có ai khám phá trong chính bản thân mình một cảm xúc đơn điệu mà hình ảnh không phản chiếu qua tấm gương nầy. Mà nầy, tất cả những nổi buồn lo, sợ hãi, nghi ngờ, hy vọng, quan tâm, lo lắng – nói ngắn gọn, tất cả những rung động xôn xao mà lý trí con người sẽ bị xới lên – Đức Thánh Linh đã được mô tả ở đây trong cuộc sống”.
Luther đã nói về sách Thi thiên:
“Sách Thi thiên là quyển sách ưa thích của các thánh đồ … [từng người một], bất luận là hoàn cảnh nào, hãy tìm trong [sách] Thi thiên và lời lẽ nào thích ứng với hoàn cảnh người tìm thấy chính mình trong đó và làm thỏa mãn mọi nhu cần của mình thật thích ứng giống như thể chúng đã được sáng tác riêng vì cớ người vậy, và trong phương thức ấy, bản thân người có thể không tận dụng được chúng cũng không tìm thấy hay ao ước Thi thiên hoặc lời lẽ nào tốt hơn”.
Bernhard Anderson nhắc cho độc giả của ông nhớ rằng Dietrich Bonhoeffer, ông đã bị chế độ Phát xít hành hình, là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc sách Thi thiên. Ấn bản sau cùng của ông trước khi ông qua đời là quyển Sách cầu nguyện của Kinh thánh: Giới thiệu sách Thi thiên (1940). Vào ngày 15 tháng 5 năm 1943, ông đã viết ra mấy lời nầy: “Tôi đang đọc sách Thi thiên mỗi ngày, như tôi đã đọc trong nhiều năm qua. Tôi biết rõ, yêu mến chúng nhiều hơn bất kỳ sách nào khác trong Kinh thánh”.
Đâu là phần đóng góp có một không hai của sách Thi thiên?
(1) Sách Thi thiên là thơ văn. Sách Thi thiên là thơ văn, nhưng không phải loại thơ văn mà nhiều người quen thuộc với đâu. Khi bạn nhìn vào sách Thi thiên trong bản Kinh thánh King James, bạn sẽ khám phá ra rằng khổ sách Thi thiên chẳng khác gì với khuôn khổ của sách Sáng thế ký. Mãi cho đến hơn 100 năm sau, Giám Mục Robert Lowth mới tái khám phá ra cảm hứng của thể thơ Hybálai. Thơ văn Hybálai không giống như thơ văn của chúng ta. Khi chúng ta suy nghĩ về thơ văn, chúng ta nghĩ tới những dòng thơ nầy:
Mary có con chiên nhỏ,
Văn chương khôn ngoan:
Các Thi thiên, Phần I
Mục sư Bob Deffinbaugh
Phần giới thiệu:
Hôm nay đúng là ngày sinh nhật của em gái tôi. Ngoài ra, Lễ Phục Sinh (có lẽ tốt hơn phải nói là “Chúa nhật phục sinh”) chỉ còn cách có một tuần thôi. Đây là thời điểm khi bộ phận lo thiệp chúc mừng của siêu thị sẽ rất bận rộn với những khách hàng tìm kiếm đúng thứ thiệp họ mong muốn. Chúng tôi mua thiệp chúc mừng vì có ai đó đã ghi lời chúc rất hay vào tư tưởng của chúng ta hơn là chúng ta làm việc ấy. Thiệt là kỳ lạ, mặc dù phần nhiều thiệp chúc mừng không thuộc vào loại “Hallmark Card” theo truyền thống – là thứ thiệp dành cho người nào “quan tâm để gửi đi lời chúc hay nhất”. Ngày nay, người ta đúng là có khuynh hướng gửi thứ thiệp có tính cách hài hước khi họ cần phải gửi cho một nhân vật quan trọng, đặc biệt ngày sinh nhật, ngày kỷ niệm, và thậm chí thứ thiệp cho người yêu nữa. Khi các mối quan hệ đậm sâu hơn, người ta có những cảm xúc mạnh mẽ, và họ phấn đấu để tìm đúng những câu phải lẽ để trao đối với họ. Giờ đây, có nhiều người không thực sự muốn có mối quan hệ thân mật, vì vậy họ gửi đi loại thiệp có tính hóm hỉnh, thứ thiệp không bao giờ nhận lại được gì dưới bộ mặt quan hệ ấy.
Sách Thi thiên là thứ đại loại giống như bộ phận “Hallmark Cards” trong Kinh thánh vậy. Ở đây, chúng ta tìm thấy những lời lẽ tỏ ra những cảm xúc sâu sắc và mạnh mẽ nhất của mình, vô luận là hoàn cảnh nào. Một số Thi thiên bày tỏ sự vui mừng ngợi khen vì những hành động giải cứu của Đức Chúa Trời; nhiều bài khác tỏ ra sự ăn năn và xưng tội; vẫn có những bài khác nữa kêu la với Đức Chúa Trời vì Ngài dường như không biết gì về hoàn cảnh của tác giả. Toàn bộ sắc màu tình cảm của con người đã được tỏ ra trong sách Thi thiên. Chính vì lý do nầy mà nhiều người nam người nữ đã xây sang sách Thi thiên trải qua nhiều thế kỷ. Sách Thi thiên tỏ ra những cảm xúc sâu sắc nhất của tấm lòng.
Tôi có một phần việc rất khó khăn – tôi phải nổ lực xử lý với sách Thi thiên trong hai bài học. Trong bài học nầy, tôi sẽ cố gắng cung ứng một nhận định rộng rãi về các Thi thiên, tìm cách thuyết phục bạn thấy được quyển sách nầy rất có giá trị cho thời gian và sự lưu ý của bạn. Tôi sẽ nổ lực để tỏ ra lý do tại sao sách Thi thiên rất quan trọng như thế và những đóng góp có một không hai mà chúng có cho cả Kinh thánh. Tôi sẽ cố gắng tóm tắt một số đặc điểm của sách Thi thiên. Như vậy, chúng ta sẽ nhìn vắn tắt vào một Thi thiên, ấy là Thi thiên 73. Sau cùng, tôi sẽ tìm cách chỉ ra sách Thi thiên áp dụng cho chúng ta như thế nào và cho sự thờ phượng của chúng ta ngày nay.
Tại sao sách Thi thiên là quan trọng?
Sau sách Êsai, sách Thi thiên là sách Cựu Ước được trưng dẫn thường xuyên nhất trong Tân Ước. Chúa Jêsus chỉ ra rằng sách Thi thiên đã nói về Ngài:
“Đoạn, Ngài phán rằng: Ấy đó là điều mà khi ta còn ở với các ngươi, ta bảo các ngươi rằng mọi sự đã chép về ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng các Thi Thiên phải được ứng nghiệm” (Luca 24:44).
Trên thập tự giá ở đồi Gôgôtha, Chúa Jêsus đã kêu la bằng lời lẽ của Thi thiên 22:1. Các sứ đồ đã sử dụng các Thi thiên để minh chứng rằng Chúa Jêsus là Đấng Mêsi (xem Công Vụ các Sứ Đồ 2:24-36; 12:29-39). Sách Thi thiên cũng đóng một vai quan trọng trong Hội thánh đầu tiên:
“Hỡi anh em, nên nói thể nào? Khi anh em nhóm lại với nhau, trong anh em, ai có bài ca, hoặc bài giảng dạy, hoặc lời tỏ sự kín nhiệm, hoặc nói tiếng lạ, hoặc giải tiếng lạ chăng? Hãy làm hết thảy cho được gây dựng” (I Côrinhtô 14:26).
“Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa” (Êphêsô 5:18-19).
“Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời “(Côlôse 3:16).
Sách Thi thiên rất quan trọng xuyên suốt lịch sử của Hội thánh. Chrysostom và Augustine có mặt giữa vòng những người đã viết loại sách chú giải về sách Thi thiên. John Calvin đã nói như vầy về sách Thi thiên:
“Quyển sách nầy tôi không muốn kể đấy là một quyền sách phân tích tất cả các chi tiết của linh hồn; vì chẳng có ai khám phá trong chính bản thân mình một cảm xúc đơn điệu mà hình ảnh không phản chiếu qua tấm gương nầy. Mà nầy, tất cả những nổi buồn lo, sợ hãi, nghi ngờ, hy vọng, quan tâm, lo lắng – nói ngắn gọn, tất cả những rung động xôn xao mà lý trí con người sẽ bị xới lên – Đức Thánh Linh đã được mô tả ở đây trong cuộc sống”.
Luther đã nói về sách Thi thiên:
“Sách Thi thiên là quyển sách ưa thích của các thánh đồ … [từng người một], bất luận là hoàn cảnh nào, hãy tìm trong [sách] Thi thiên và lời lẽ nào thích ứng với hoàn cảnh người tìm thấy chính mình trong đó và làm thỏa mãn mọi nhu cần của mình thật thích ứng giống như thể chúng đã được sáng tác riêng vì cớ người vậy, và trong phương thức ấy, bản thân người có thể không tận dụng được chúng cũng không tìm thấy hay ao ước Thi thiên hoặc lời lẽ nào tốt hơn”.
Bernhard Anderson nhắc cho độc giả của ông nhớ rằng Dietrich Bonhoeffer, ông đã bị chế độ Phát xít hành hình, là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc sách Thi thiên. Ấn bản sau cùng của ông trước khi ông qua đời là quyển Sách cầu nguyện của Kinh thánh: Giới thiệu sách Thi thiên (1940). Vào ngày 15 tháng 5 năm 1943, ông đã viết ra mấy lời nầy: “Tôi đang đọc sách Thi thiên mỗi ngày, như tôi đã đọc trong nhiều năm qua. Tôi biết rõ, yêu mến chúng nhiều hơn bất kỳ sách nào khác trong Kinh thánh”.
Đâu là phần đóng góp có một không hai của sách Thi thiên?
(1) Sách Thi thiên là thơ văn. Sách Thi thiên là thơ văn, nhưng không phải loại thơ văn mà nhiều người quen thuộc với đâu. Khi bạn nhìn vào sách Thi thiên trong bản Kinh thánh King James, bạn sẽ khám phá ra rằng khổ sách Thi thiên chẳng khác gì với khuôn khổ của sách Sáng thế ký. Mãi cho đến hơn 100 năm sau, Giám Mục Robert Lowth mới tái khám phá ra cảm hứng của thể thơ Hybálai. Thơ văn Hybálai không giống như thơ văn của chúng ta. Khi chúng ta suy nghĩ về thơ văn, chúng ta nghĩ tới những dòng thơ nầy:
Mary có con chiên nhỏ,
Lông nó trắng như tuyết.
Và hễ Mary đi đến đâu,
Con chiên bèn theo đến đó.
Thơ văn Hybálai không nương nhiều vào thể văn; nó dựa vào sự lặp đi lặp lại và sự phán triển của tư tưởng từ dòng nầy cho đến dòng kế. Sự lặp đi lặp lại nầy được biết là “thể đối”. Trong thể đối đồng nghĩa, dòng thứ nhứt vang dội nơi dòng thứ hai, chỉ với một sự thay đổi nhẹ ở từ ngữ mà thôi:
“Nhân sao các ngoại bang náo loạn? Và những dân tộc toan mưu chước hư không?” (Thi thiên 2:1; cũng xem 3:1).
Trong thể đối chọi nhau, từ ngữ của dòng thứ nhứt được khẳng định ở dòng thứ hai, không phải bởi sự lặp đi lặp lại, mà bởi đối chiếu:
“Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong” (Thi thiên 1:6; cũng xem 40:4).
Trong thể đối tiệm tiến, dòng thứ hai xác định, phát triển, và hoàn tất tư tưởng của dòng thứ nhứt:
“Hỡi các họ hàng của muôn dân, đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giê-hô-va! (Thi thiên 96:7)
Có nhiều loại thể đối khác nữa, nhưng bài học nầy cung ứng cho bạn một số trường hợp cho thấy thể nào phép đối là xương sống của thơ văn Hybálai. Đức Chúa Trời khôn ngoan và giàu ơn dường nào khi sử dụng thơ văn Hybálai, thay vì loại thơ văn mà chúng ta vốn quen thuộc. Bạn có thể hình dung khó khăn dường nào khi dịch bài thơ “Mary có con chiên nhỏ” thành ngôn ngữ Hybálai không? Thơ văn Hybálai là hình thức thơ văn chuyển dịch dễ dàng nhứt mà tôi có biết đến, và đây là thơ văn mà Đức Chúa Trời đã chọn cho sách Thi thiên.
Thơ văn là môi giới của sự bày tỏ làm cho sự truyền đạt những cảm xúc và tình cảm sâu sắc được thuận tiện hơn. Khi cha tôi có mặt ở đơn vị Hải quân trong Đệ II Thế Chiến, ông đã viết những vầng thơ gửi cho mẹ tôi. (Thực ra, cho tới mới đây, cha tôi đã viết một bài thơ cho mỗi đứa con và cháu của ông cho ngày sinh nhựt của chúng). Trong những năm tháng chức vụ của tôi ở trong tù, tôi đã bị sốc khi biết được nhiều tù phạm đã làm thơ. Vì một lý do nào đó, điều nầy được xem là một phương thức tỏ ra mọi cảm xúc đáng chấp nhận của họ (một việc không được thực hiện ở trong tù).
Vì sách Thi thiên là thơ văn, chúng phải được giải thích theo một tư thế khác biệt hơn loại truyện kể lịch sử. Chúng ta trông mong những điều hay đẹp từ những câu nói. Chúng ta biết nên nắm lấy từng lời một theo nghĩa đen. Thí dụ, chúng ta đọc trong sách Thi thiên:
“Nguyện các sông vỗ tay, núi non cùng nhau hát vui mừng trước mặt Đức Giê-hô-va! (Thi thiên 98:8).
(2) Sách Thi thiên là những bài ca. Từ Hybálai Tehillim được lấy làm đề tựa của sách Thi thiên trong quyển Kinh thánh Hebrew có ý nói: “những bài ca ngợi khen”. Những câu nói được thấy ở đầu dòng của nhiều Thi thiên thường là thuật ngữ âm nhạc. Đôi khi có một tham khảo đến “ca trưởng” trong câu đầu của Thi thiên (thí dụ, các Thi thiên 4, 5, 6, 8, 9, v.v…). Những nhạc cụ đa dạng đã được nói tới, tỉ như sáo (Thi thiên 5) và các nhạc cụ bằng dây (các Thi thiên 4, 6, 54, 55).
Âm nhạc đóng một vai quan trọng trong sự thờ phượng của người Israel xưa kia, giống như âm nhạc có trong nhà thờ trải qua các thế đại và chuyền xuống hiện tại. Martin Luther từng nói:
“Người nào xem thường âm nhạc … người đó không hài hòa với tôi. Âm nhạc là một món quà đến từ Đức Chúa Trời, chớ không phải món quà của loài người … . Sau thần học, tôi đặt âm nhạc ở chỗ cao nhất và vinh dự nhứt”.
Âm nhạc không phải là một phần phụ trong sự thờ phượng của chúng ta; nó đóng một vai trò cơ bản trong đời sống của chúng ta. Âm nhạc của David không cứ cách nào đó đã làm cho tâm linh rối rắm như thuộc về ma quỉ của Saulơ phải bình tịnh lại (I Samuên 16:14-23). Những mặc khải có tính tiên tri qua Thánh Linh của Đức Chúa Trời được kếu cấu với âm nhạc ít nhứt ở hai trường hợp (I Các Vua 10:5-6, 9-11; II Các Vua 3:15).
Người Do thái xưa kia đều biết rõ giai điệu ít nhất ở một số Thi thiên:
“Thơ con cháu Côrê làm, để dạy dỗ về ái tình. Cho thầy nhạc chánh, theo điếu “Sô-san-nim” (lời tựa cho Thi thiên 45).
Dọc theo thời gian thì lý do của nhiều Thi thiên đã bị đánh mất đi, và tôi có khuynh hướng nghĩ rằng điều nầy chẳng phải là tình cờ. Sự việc xảy ra như thế để cho chúng ta phải hát lên các Thi thiên mà chúng ta phải đặt âm nhạc cho chúng, âm nhạc của chính chúng ta. Đúng là phải như thế đấy. Bạn có thể hình dung từng chữ một được gắn với các nốt nhạc khi các Thi thiên được phiên dịch ra? Đôi khi, thích ứng với cách dịch thuật, sẽ có nhiều chữ được ghi lại hai lần, và ở các lần khác thì đảo lại. Một số từ ngữ Hybálai PHẢI được phiên dịch với một cụm từ, vì thế sẽ buộc phải có nhiều chữ hơn.
Đức Chúa Trời vốn biết rõ các Thi thiên sẽ được chuyển dịch thành nhiều, nhiều thứ ngôn ngữ, và từng nhóm ngôn ngữ sẽ có văn hóa, âm nhạc và sự ưa thích riêng của nó. Các Thi thiên khích lệ chúng ta viết nhạc phối mà chúng ta thấy thích ứng với Thi thiên và với văn hóa của chúng ta.
Đôi lúc tôi rất vui khi có người đứng dậy rồi nói: “Chúng ta có thể hát bài số 256, và chúng ta sẽ hát bài ấy với tư thế thờ phượng không?” Tư thế thờ phượng có ý nói tới nhiều việc khác nhau cho các dân tộc khác nhau. Đối với dân nầy, nó có nghĩa là hát lên với điệu cappella; với các dân khác nó có nghĩa là hát lên cách từ từ, dịu dàng; với các dân khác nữa nó có nghĩa là hát lớn tiếng, có lẽ thêm vỗ tay vào nữa. Sách Thi thiên không chứa bất kỳ loại nhạc nào được quy định để chúng ta có thể đặt lời lẽ đầy cảm hứng nầy vào âm nhạc theo một phương thức thích hợp với mạng văn hóa riêng của chúng ta. Tất nhiên, điều nầy nằm trong các phép tắc có giới hạn, nhưng có một sự tự do rất lớn ở đây.
(3) Sách Thi thiên là biểu hiện của sự thờ phượng. Thi thiên là biểu hiện phản ứng của con người đối với Đức Chúa Trời theo ánh sáng mọi hoàn cảnh của mình. Phạm vi mọi hoàn cảnh thôi thúc là rất rộng trong sách Thi thiên. Với đôi lời lưu ý, Ron Allen đã chia Kinh thánh thành ba phạm trù chính: khải thị, suy gẫm và đáp ứng. Thí dụ, khải thị bao gồm những truyện tích trong Kinh thánh. Suy gẫm bao gồm một số sách dạy về sự khôn ngoan, tỉ như sách Châm ngôn. Đáp ứng sẽ được biểu hiện trong sách Thi thiên.
Thường thì các Thi thiên là phần đáp ứng công khai của một người đối với Đức Chúa Trời như một kết quả tự nhiên của việc gặp gỡ riêng tư với Đức Chúa Trời. Chúng ta nhìn thấy tác giả Thi thiên tỏ ra sự thờ phượng của họ đối với Đức Chúa Trời như sự ứng nghiệm lời thề của họ phải ngợi khen Đức Chúa Trời cách công khai vì sự can thiệp của Ngài trong đời sống khi đáp trả mọi lời cầu xin của họ:
“Tôi sẽ trả xong cho Đức Giê-hô-va các sự tôi hứa nguyện, tại trước mặt cả dân sự Ngài” (Thi thiên 116:14).
“Sự ngợi khen của tôi tại giữa hội lớn do Chúa mà ra; Tôi sẽ trả xong sự hứa nguyện tôi trước mặt những kẻ kính sợ Chúa” (Thi thiên 22:25; cũng xem 66:13-16)
Tác giả Thi thiên thường thúc giục đồng bào Do thái của mình hiệp cùng ông trong sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Ở Rôma 12:15, chúng ta được khuyên phải: “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc”.
Tác giả Thi thiên hiển nhiên làm cho việc nầy được thuận tiện hơn. Chúng ta có khả năng không những bước vào kinh nghiệm của tác giả Thi thiên, mà còn bước vào nhưng tư tưởng sâu kín của họ, đặc biệt các tư tưởng của họ về Đức Chúa Trời:
“Đức Chúa Trời ôi! linh hồn tôi mơ ước Chúa, Như con nai cái thèm khát khe nước. Linh hồn tôi khát khao Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống: Tôi sẽ đến ra mắt Đức Chúa Trời chừng nào? Đang khi người ta hằng hỏi tôi: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm. Xưa tôi đi cùng đoàn chúng, Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời, Có tiếng reo mừng và khen ngợi. Một đoàn đông giữ lễ; Rày tôi nhớ lại điều ấy, và lòng buồn thảm. Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? Hãy trông cậy nơi Đức Chúa Trời; ta sẽ còn ngợi khen Ngài nữa; Vì nhờ mặt Ngài, bèn được cứu rỗi. Đức Chúa Trời tôi ôi! linh hồn tôi bị sờn ngã trong mình tôi; Nên từ xứ Giô-đanh, Từ núi Hẹt-môn, và từ gò Mít-sê-a, tôi nhớ đến Chúa. Vực gọi vực theo tiếng ào ào của thác nước Chúa; Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi. Dầu vậy, ban ngày Đức Giê-hô-va sẽ sai khiến sự nhân từ Ngài; Còn ban đêm bài hát Ngài ở cùng tôi, Tức là bài cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời của mạng sống tôi. Tôi sẽ thưa cùng Đức Chúa Trời, là hòn đá tôi, rằng: Cớ sao Chúa quên tôi? Nhân sao tôi phải buồn thảm Vì cớ kẻ thù nghịch hà hiếp tôi?” (Thi thiên 42:1-9)
(4) Các Thi thiên là những lời cầu nguyện:
“Chung các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai” (Thi thiên 72:20).
Ở một thời điểm, cần phải chú ý đến lời “cầu nguyện của Giabe”.
Giabe kêu cầu cùng Đức Chúa Trời của Israel: “Chớ chi Chúa ban phước cho tôi, mở bờ cõi tôi rộng lớn; nguyện tay Chúa phù giúp tôi, giữ tôi được khỏi sự dữ, hầu cho tôi chẳng buồn rầu! Đức Chúa Trời bèn ban cho y như sự người cầu nguyện” (I Sử ký 4:10).
Tôi không gắng sức để chê trách những người nào bắt chước theo lời “cầu nguyện của Gia be” nầy, song tôi muốn chỉ ra rằng các Thi thiên đều là những lời cầu nguyện đặc biệt được ghi ra cho sự lặp đi lặp lại. Tôi không hoàn toàn nhất định về lời cầu nguyện của Giabe. Thực vậy, đối với tôi dường như phần lớn các Thi thiên đều là lời cầu nguyện của nhiều người, họ đã thấy mình ở trong những hoàn cảnh khó khăn. Chúng thường là những lời cầu nguyện xin sự giải cứu ra khỏi nguy hiểm và sự chết, chớ không phải những lời cầu nguyện xin được thịnh vượng đâu. Tôi có khuynh hướng nói rằng lời cầu nguyện của Giabe là hạn hẹp trong mục tiêu của nó (chỉ nhắm vào Giabe và cuộc sống an lành của người mà thôi), trong khi các Thi thiên tập trung vào Đức Chúa Trời, và chúng nhất định “tán rộng” trong các giới hạn nội dung của chúng.
(5) Các Thi thiên đều có sự dạy dỗ. Các Thi thiên là một sự tóm tắt, một sự cô đọng, về thần học Cựu Ước. Các Thi thiên rất phong phú trong nội dung của chúng một khi chúng quan tâm đến vấn đề giáo lý. Chúng ta thấy các thuộc tánh của Đức Chúa Trời là một lẽ đạo thường xuyên trong các Thi thiên. Chúng ta thấy luật pháp tác động rất dễ bộc lộ trong các Thi thiên. Các Thi thiên cũng tóm tắt lịch sử những lần xử lý của Đức Chúa Trời với con người trong Cựu Ước (xem Thi thiên 78, 105). Các Thi thiên có chứa lời tiên tri, như chúng ta sẽ chỉ ra trong bài học kế tiếp. Các Thi thiên tạo điều kiện dễ dàng cho việc học hỏi Lời Đức Chúa Trời và học thuộc lòng Lời ấy. Thí dụ, thi thiên 119, được sắp đặt theo mẫu tự. Từng mảng trong Thi thiên bắt đầu với mẫu tự kế tiếp. Các Thi thiên rất phong phú trong sự dạy dỗ. Cái thấy rõ ràng nhất mà chúng ta được cung ứng cho là về luật pháp Cựu Ước:
“Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy. Các điều răn Chúa làm cho tôi khôn ngoan hơn kẻ thù nghịch tôi, vì các điều răn ấy ở cùng tôi luôn luôn. Tôi có trí hiểu hơn hết thảy kẻ dạy tôi, vì tôi suy gẫm các chứng cớ Chúa. Tôi thông hiểu hơn kẻ già cả, vì có gìn giữ các giềng mối Chúa. Tôi giữ chân tôi khỏi mọi đường tà, để gìn giữ lời của Chúa. Tôi không xây bỏ mạng lịnh Chúa; Vì Chúa đã dạy dỗ tôi. Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi! Nhờ giềng mối Chúa tôi được sự thông sáng; Vì vậy, tôi ghét mọi đường giả dối” (Thi thiên 119:97-104).
(6) Các Thi thiên nói thay cho chúng ta. Chúng ta biết rằng các Thi thiên nói với chúng ta, nhưng chúng cũng nói thay cho chúng ta nữa. Các Thi thiên có thể biểu hiện cho tấm lòng và tư tưởng của chúng ta tốt hơn lời lẽ chúng ta có thể biểu hiện. Ở vài trường hợp, người ta hỏi tôi không biết Rôma 8:26-27 có phải là phân đoạn minh chứng cho việc nói tiếng lạ hay không:
“Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy” (Rôma 8:26-27).
Không cần phải tìm cách lao mình vào một cuộc tranh cãi về ân tứ nói tiếng lạ, tôi muốn nói rằng dù một tín hữu nào có ân tứ nầy đang hiện hữu hôm nay hay không, tôi không nghĩ Rôma 8:26-27 đang đề cập tới ân tứ nói tiếng lạ. Phân đoạn Kinh thánh nầy nói cho chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh vùa giúp chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời, đặc biệt khi chúng ta dường như không thể tìm được lời lẽ để bày tỏ ra nổi lòng của chúng ta với Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng truyền đạt từ Đức Chúa Trời cho chúng ta những việc mà lý trí tự nhiên của chúng ta không sao hiểu được:
“Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự dồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng. Nhưng người có tánh thiêng liêng xử đoán mọi sự, và chính mình không bị ai xử đoán. Vì ai đã biết ý Chúa, đặng dạy dỗ Ngài? Nhưng phần chúng ta, thì có ý của Đấng Christ” (I Côrinhtô 2:14-16).
Sự truyền đạt nầy từ Đức Chúa Trời không phải bởi phương tiện ân tứ tiếng lạ đâu. Thực vậy, không có sự thông giải, thậm chí chúng ta còn không biết điều chi đã được nói ra bằng tiếng lạ (xem I Côrinhtô 14:6-19). Hơn nữa, Kinh thánh nói rõ ràng rằng ân tứ tiếng lạ chỉ được ban ra cho một vài người, nhưng không phải ban ra cho tất cả các thánh đồ, giống như các ân tứ khác (I Côrinhtô 12:29-30). Nếu ân tứ tiếng lạ là phương tiện bởi đó chúng ta có khả năng truyền đạt mọi suy tưởng không thể bày tỏ ra với Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện, thế thì không phải các thánh đồ đều có khả năng ấy, vì không phải mọi thánh đồ đều nói tiếng lạ.
Mục đích của tôi ở đây, ấy là vấn đề được nói ra trong Rôma 8:26-27 phải là một điều khoản chung cho tất cả các thánh đồ, chớ không chỉ cho một số người. Các Thi thiên là một phương tiện bởi đó Thánh Linh của Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta phát ra rõ ràng những suy tưởng và than van của tấm lòng chúng ta. Tấm lòng làm cho chúng ta phải bối rối, song chúng ta dường như không thể chỉ ngón tay vào những gì thực sự gây rối rắm cho chúng ta. Khi ấy, chúng ta quay sang các Thi thiên và tìm được một Thi thiên thích ứng đặc biệt mô tả sự vất vả của riêng chúng ta. Tôi không cho rằng các Thi thiên là điều khoản “chung” duy nhứt mà Thánh Linh của Đức Chúa Trời đặt để cho sự sử dụng của chúng ta, nhưng tôi nghĩ các Thi thiên là một trong những điều khoản của Đức Thánh Linh vùa giúp chúng ta bày tỏ ra những cảm xúc sâu sắc của nổi lòng mình.
Chính Athanasius, một lãnh đạo Hội thánh lỗi lạc trong thế kỷ thứ tư, ông công bố “rằng các Thi thiên đều có một vị trí đặc biệt trong Kinh thánh vì hầu hết Kinh thánh đều phán cùng chúng ta, trong khi các Thi thiên nói thay cho chúng ta”.
Martin Luther thấy các Thi thiên là một ngôi trường cầu nguyện:
“Cơ đốc nhân có thể học cầu nguyện theo tác giả Thi thiên, vì ở đây người có thể nghe thể nào các thánh đồ trò chuyện với Đức Chúa Trời. Nhiều lời cầu xin đã được ghi ra ở đây, sướng và khổ, mong mỏi và quan tâm, đều khả thi cho từng Cơ đốc nhân nào tìm thấy chính mình trong đó, và hãy cầu nguyện với các Thi thiên”.
Một cái nhìn vắn tắt vào Thi thiên 73
Tôi đã chọn Thi thiên 73 để chứng minh cách thức các Thi thiên dạy dỗ thần học trong đó. Thi thiên 73 nói tới nan đề điều ác, giống như Thi thiên 37 và các Thi thiên khác vậy. Thi thiên 73 là một trong các Thi thiên kết thúc với một âm hưởng sung sướng. Không phải mỗi Thi thiên đều kết thúc theo cách nầy. Trong một số Thi thiên, tác giả Thi thiên kêu la với Đức Chúa Trời cầu xin sự giải cứu hay sự can thiệp thiêng liêng vì Đức Chúa Trời đã không hành động chi hết. Trong các trường hợp như thế, tác giả Thi thiên chỉ phó mình nơi Đức Chúa Trời của Kinh thánh và tin cậy nơi Ngài bất chấp mọi cảnh ngộ của mình, chiếu theo bổn tánh, những lời hứa giao ước, và mọi hành động của Ngài trong quá khứ (xem, thí dụ, các Thi thiên 6, 13, 34, 44, 74, 79, 80, 89, 94). Tuy nhiên, trong Thi thiên 73, tác giả Thi thiên đạt tới cách giải quyết cho nan đề của mình, là điều ông tỏ ra trong Thi thiên của ông. Chúng ta hãy xem xét cách vắn tắt nan đề của tác giả Thi thiên, giải pháp mà ông đạt tới, và phản ứng của ông đối với Đức Chúa Trời.
Tác giả của Thi thiên nầy là Asáp, tác giả của 12 trong số các Thi thiên. Asáp là “chánh trong sự thờ phượng”, ông đã phục vụ trước hòm giao ước của Đức Giêhôva (I Sử ký 16:4-5). Tôi có thể hình dung được phần nhiều sự thống khổ của ông đã đến từ việc nhìn vào những kẻ đến thờ phượng, với sự nhận biết một số người đã sống rất giả hình. Tình trạng chẳng đặng đừng của Asáp dựa theo lời hứa cơ bản nầy, mà mỗi người Do thái đều tin theo:
“Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành, tức là những người có lòng trong sạch” (Thi thiên 73:1)
Giao ước với Môise bảo đảm với dân sự của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ chúc phước cho người nào sống công nghĩa và Ngài sẽ sửa phạt kẻ ác. Khi Asáp để ý thấy có nhiều người trong chỗ ông thi hành chức vụ, lời hứa nầy dường như chưa xảy ra. Thực vậy, dường như là chỉ có điều ngược lại đang xảy ra mà thôi – trông như là Đức Chúa Trời đã chúc phước cho kẻ ác, hay tệ hại hơn, kẻ ác đang thịnh vượng và Đức Chúa Trời dường như không biết tới hay chẳng quan tâm đến!
“Còn về phần tôi, chân tôi đã gần vấp, xuýt chút bước tôi phải trợt. Vì khi tôi thấy sự hưng thạnh của kẻ ác, thì có lòng ganh ghét kẻ kiêu ngạo. Vì trong cơn chết chúng nó chẳng bị đau đớn; Sức lực của chúng nó vẫn đầy đủ. Chúng nó chẳng bị nạn khổ như người khác, cũng không bị tai họa như người đời. Bởi cớ ấy sự kiêu ngạo làm cây kiền cho cổ chúng nó; Sự hung bạo bao phủ chúng nó như cái áo. Mắt chúng nó lộ ra trong mỡ; Tư tưởng lòng chúng nó tuôn tràn ra. Chúng nó nhạo báng, nói về sự hà hiếp cách hung ác: Chúng nó nói cách cao kỳ. Miệng thì nói hành thiên thượng, còn lưỡi lại phao vu thế gian. Vì cớ ấy dân sự Ngài xây về hướng đó, và chúng nó uống nước cạn chén. Chúng nó rằng: Làm sao Đức Chúa Trời biết được? Há có sự tri thức nơi Đấng Chí cao sao? Kìa là những kẻ ác, Chúng nó bình an vô sự luôn luôn, nên của cải chúng nó thêm lên” (Thi thiên 73:2-12).
Asáp nói rõ rằng ông đã phạm tội bằng cách nghi ngờ sự nhơn từ và bằng cách ghen tỵ với kẻ ác kèm theo với sự giàu có của họ. Nội dung của toàn bộ Thi thiên sẽ cho chúng ta thấy rõ ràng rằng nhận thức của Asáp không chính xác lắm. Không phải ai thịnh vượng cũng là gian ác cả đâu, cũng không phải tất cả người công bình đều nghèo khó và bị lấn lướt. Sự thực cho thấy rằng kẻ ác không hoàn toàn tránh khỏi đau khổ. Asáp đã nhìn thấy một vài người sống gian ác, họ cũng rất giàu có, và dường như họ tránh được đau khổ. Cái điều làm cho vấn đề ra tệ hại hơn, ấy là chính những kẻ ấy sống rất kiêu căng về tội lỗi của họ, khoe khoang về nó (câu 8). Dường như họ làm và nói giống như họ chính là Đức Chúa Trời vậy. Họ sống kiêu ngạo đến nỗi thậm chí họ đã nói nghịch cùng Đức Chúa Trời (câu 9). Họ dám nghĩ và nói rằng Đức Chúa Trời phải biết rõ hay quan tâm đến cách họ đã hành xử (các câu 10-11). Để tóm lược lại, giống như Asáp đã nhìn vào kẻ ác, ông đã ghen tỵ với sự giàu có của họ, và ông bắt đầu hồ nghi lời hứa cơ bản rằng Đức Chúa Trời ban thưởng cho người công bình và sửa phạt kẻ ác. Gần như ông chối bỏ một trong những điều cơ bản của đức tin Do thái:
“Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hêbơrơ 11:6).
Asáp xưng nhận thể nào ông đã đến gần với việc “ném mình vào tháp ngà” rồi chịu thua:
“Tôi đã làm cho lòng tôi tinh sạch, và rửa tay tôi trong sự vô tội, việc ấy thật lấy làm luống công, Vì hằng ngày tôi phải gian nan, mỗi buổi mai tôi bị sửa phạt” (Thi thiên 73:13-14).
Có điều chi tốt lành đã được làm ra cách công bình cho ông, Asáp thắc mắc như thế!?! Tất nhiên, điều nầy cho rằng ông thực sự sống công bình – một giả tưởng rất nguy hiểm:
“Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi” (Êsai 64:6).
Asáp thành thực xưng ra tội lỗi mình và mối nguy hiểm mà sự ấy gắn cho chính mình ông cùng nhiều người khác:
“Nếu tôi có nói rằng: Ta sẽ nói như vậy; Ắt tôi đã phạm bất trung cùng dòng dõi con cái Chúa” (Thi thiên 73:15).
“Khi lòng tôi chua xót, và dạ tôi xôn xao, thì bấy giờ tôi ở ngu muội, chẳng hiểu biết gì; Trước mặt Chúa tôi ở khác nào một thú vật vậy” (Thi thiên 73:21-22).
Giải pháp cho tình thế của Asáp đã đến khi ông đi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời và có thể nhìn thấy kẻ ác từ nhận thức thiêng liêng và đời đời:
“Khi tôi suy gẫm để hiểu biết điều ấy, bèn thấy là việc cực nhọc quá cho tôi, cho đến khi tôi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời, Suy lượng về sự cuối cùng của chúng nó. Chúa thật đặt chúng nó tại nơi trơn trợt, khiến cho chúng nó hư nát. Ủa kìa, chúng nó bị hủy diệt trong một lát! Chúng nó vì kinh khiếp mà phải tiêu hao hết trọi. Hỡi Chúa, người ta khinh dể chiêm bao khi tỉnh thức thể nào, Chúa khi tỉnh thức cũng sẽ khinh dể hình dạng chúng nó thể ấy” (Thi thiên 73:16-20).
Tôi nhớ có lần anh tôi và tôi đi đánh bắt cá hồi trên một chiếc thuyền ở bờ biển Oregon. Việc đánh bắt không được mỹ mãn lắm trong ngày đặc biệt đó (thường là như vậy với tôi và việc đánh bắt cá). Nhưng có một thành viên trên thuyền, ông ta cứ ngồi ì với quyển tạp chí bẩn thỉu kia khi ông ta ngồi đợi cá cắn câu, và chúng đã cắn câu – ít nhất là cho ông ta. Tôi đã nói ra một việc với anh tôi về sự bất công của sự việc nầy (chắc chắn Đức Chúa Trời đã lèo lái một con cá hồi đến với cần câu của tôi), và anh ấy đã đáp rất khôn khéo: “Đây là mọi sự khoái lạc mà ông nầy đã có; chúng ta được đưa lên trời để nhìn xuống mới phải”. Tất nhiên là anh ấy đã nói đúng. Đấy là điều mà Asáp cũng đã đạt tới, khi ông giờ đây nhìn vào sự thịnh vượng của kẻ ác từ một nhận định đời đời.
Asáp giờ đây nhìn vào chính những con người nầy, nhưng từ một nhận thức thiêng liêng. Ông nhìn thấy không những sự giàu có hiện tại của họ, mà còn nhìn thấy số phận đời đời của họ nữa. Có phải kẻ ác đang thịnh vượng không? Nếu thực vậy, sự thịnh vượng của họ chỉ trong một lúc mà thôi. Nhưng bất chấp sự kiêu căng và sự an ninh hiện tại của họ, tương lai của họ không bảo đảm lắm đâu. Đức Chúa Trời một ngày kia sẽ giáng xuống kẻ ác, và họ sẽ trả giá cho tội lỗi của họ. Sự giàu có của họ đột nhiên sẽ tan tác giống như giấc chiêm bao vậy. Khi Đức Chúa Trời “tỉnh thức”, Ngài sẽ xử lý với họ tùy theo tội lỗi của họ.
Asáp giờ đây nhận định mọi cảnh ngộ của mình từ một nhận thức thiêng liêng:
“Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa? Còn dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa. Thịt và lòng tôi bị tiêu hao; Nhưng Đức Chúa Trời là sức lực của lòng tôi, và là phần tôi đến đời đời” (Thi thiên 73:25-26).
Trong sự thịnh vượng của họ, kẻ ác đã ăn nói kiêu căng nghịch cùng Đức Chúa Trời (xem các câu 8-12). Sự thịnh vượng đã không kéo họ đến gần Đức Chúa Trời hơn. Mặt khác, Asáp giờ đây kỉnh kiền nhận thức được tình trạng được phước của sự mật thiết với Đức Chúa Trời. Trong khi đời sống của ông có thể không được đánh dấu bởi sự sung túc và an nhàn, ông nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đang ở với ông. “Tình trạng nghèo khó” của ông (ít nhất khi đem sánh với kẻ giàu có gian ác) đã kéo ông đến gần Đức Chúa Trời hơn. Và cuộc sống đời nầy của ông với Đức Chúa Trời cũng vậy, nó luôn tốt hơn với đời sống của kẻ ác. Và trên hết mọi sự, mối quan hệ đời nầy của ông với Đức Chúa Trời mới chỉ là phần khởi đầu. Ông được bảo đảm về mối tương giao đời đời với Đức Chúa Trời trong sự hiện diện của Ngài.
Nếu Asáp cần phải kết luận rằng kẻ ác đang “có cuộc sống tốt nhứt” trong lúc bây giờ, nhưng rồi hắn sẽ “có cuộc sống tốt nhứt” trong cõi đời đời, ông sẽ rơi vào chỗ sai lầm. Asáp đang có cuộc sống tốt nhứt, ngay bây giờ và cho đến đời đời. Asáp giờ đây đã đạt tới một xác định rất khác biệt về điều tốt đẹp:
“Nhưng lấy làm tốt thay cho tôi đến gần Đức Chúa Trời; Tôi nhờ Chúa Giê-hô-va làm nơi nương náu mình, đặng thuật lại hết thảy các công việc Ngài” (Thi thiên 73:28).
Asáp đã bắt đầu với câu nói: “Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành” (73:1a). Đối với Asáp, như với bao người khác, câu nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước về mặt vật chất cho những ai có động lực của họ trong sạch. Asáp giờ đây nhìn xem mọi sự rất khác biệt. Ông nhận ra rằng mọi động lực của ông là không thanh sạch (xem 73:15, 21-22). Ông không xứng đáng với mọi ơn phước của Đức Chúa Trời. Và hơn nữa, sự nhơn từ của Đức Chúa Trời không sao đánh giá được bằng những đồng đôla, song bằng sự đến gần với Đức Chúa Trời kìa.
Có bao nhiêu người trong chúng ta đang phạm tội cứ suy nghĩ theo những giới hạn sai sót không đúng như thế? Khi chúng ta nghĩ đến thiên đàng, chúng ta thường nghĩ đến những con đường lót vàng, hay sẽ chẳng còn có nước mắt nữa, không còn có buồn thảm nữa, chẳng còn có sự chết nữa. Trong khi điều nầy là sự thực, ơn phước lớn lao nhất của thiên đàng, đây là nơi Đức Chúa Trời đang ngự trị. Thiên đàng được phước vì ở đó chúng ta có thể tận hưởng sự mật thiết không gì ngăn trở được với Đức Chúa Trời trong mọi sự đời đời. Những đau khổ của chúng ta là phương tiện giúp thả lỏng cái nắm bắt của chúng ta về đời nầy cùng những thứ vật chất của nó rồi nâng cao sự khát khao của chúng ta về thiên đàng:
“Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn. Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (II Côrinhtô 4:16-18).
Nhiều sách báo đã được viết ra về nan đề đau đớn và sự khổ ải của con người. Thi thiên nầy cho rằng cần phải có nhiều nổ lực cao quý để giải quyết vấn đề đau khổ của con người. Đây là một phương pháp chưng cất chân lý của Kinh thánh. Nó sửa chữa một số quan niệm sai lầm rất thông thường về Cơ đốc nhân và sự chịu khổ (và sự thịnh vượng). Nó làm thế chỉ với một vài từ ngữ. Đúng là một kho báu kỳ diệu của lẽ thật cần phải được tìm gặp trong sách Thi thiên. Không lạ gì khi các Thi thiên đóng một vai quan trọng trong các Hội thánh Tân Ước:
“Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa” (Êphêsô 5:18-19).
“Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Côlôse 3:16).
Nếu tôi ý thức có thiếu sót nào trong đời sống Cơ đốc của chính tôi, một trong số nầy nằm trong lãnh vực thờ phượng. Các Thi thiên là mỏ vàng tư liệu cho sự thờ phượng. Chúng cung ứng không những nội dung mà còn công thức cho sự ngợi khen và sự thờ phượng nữa – riêng và chung. Các Thi thiên giúp tôi biết ngợi khen Đức Chúa Trời trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Các Thi thiên tỏ ra một sự trung thực, cởi mở, và minh bạch trong sự thờ phượng nào thường thiếu sót nơi sự thờ phượng của tôi. Đối với tôi, có lẽ quan trọng nhất, các Thi thiên giúp tôi kinh nghiệm nhiều hơn một Cơ đốc giáo theo nghi lễ – một loại đức tin theo trí khôn. Các Thi thiên đột nhập vào tấm lòng và mọi tình cảm của tôi, cũng như trong lý trí của tôi vậy.
Các Thi thiên cũng có tính cách dạy dỗ khi tôi tham gia công khai vào sự thờ phượng chung của nhà thờ. Trong nhà thờ của chúng ta, chúng ta có buổi nhóm lại công khai, ở đó nhiều người công khai hướng dẫn vào sự thờ phượng và ở đó chúng ta tham dự Tiệc Thánh của Chúa hàng tuần. Nếu sự dự phần của tôi trong buổi nhóm nầy được dẫn dắt bởi các Thi thiên, khi ấy chính kinh nghiệm và sự gặp gỡ của tôi với Đức Chúa Trời trong cả tuần lễ sẽ cung ứng những vật liệu thô cho sự dự phần của tôi vào ngày Chúa nhật. Việc ấy hoàn toàn chẳng quan trọng ở chỗ sự dự phần của tôi khởi sự cũng như chỗ nó kết thúc. Phần nhiều các Thi thiên đều được sản sinh ra trong những tình huống khiêm hạ, tỉ như sự điên dại của David ở trước mặt Abimêléc (Thi thiên 34:1). Tuy nhiên, thi thiên của David nhắm vào sự oai nghi của lòng thương xót và ơn giải cứu của Đức Chúa Trời. Một vài người trong nhà thờ của chúng ta đã đến gần với sự chết, và có người đã qua đời để đi ở với Chúa. Lời lẽ của họ về sự thờ phượng đã giục giã chúng ta kéo đến gần Đức Chúa Trời và để cùng với họ ngợi khen Đức Chúa Trời. Các Thi thiên không nói về chúng ta, mà nói về Đức Chúa Trời. Chúng khởi sự với kinh nghiệm của chúng ta, nhưng chúng chú trọng vào Đức Chúa Trời, và chúng là một biểu hiện của sự thờ phượng.
Các Thi thiên nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta phải nên sửa soạn cho cuộc thờ phượng. Các Thi thiên không phải là sự biểu hiện tự phát của sự thờ phượng, mà cẩn thận suy nghĩ và là những lời ca ngợi và cầu xin đã được hình thành thật xinh đẹp. Các Thi thiên đã dè chừng chúng ta không nên cẩu thả trong sự thờ phượng của mình và về việc đến với nhà thờ mà chưa sửa soạn để hướng dẫn người khác bước vào sự thờ phượng. Trong khi một số nhà thờ có các cấp lãnh đạo của họ trong sự thờ phượng, dường như đối với tôi là mỗi người nào hướng dẫn trong sự thờ phượng phải thể hiện phần việc của mình trong vai trò một người hướng dẫn thờ phượng, kêu gọi sự chú ý của dân sự vào Đức Chúa Trời, và để thách thức, tạo cảm hứng cho họ lo thờ lạy Ngài.
Nguyện Đức Chúa Trời sử dụng các Thi thiên để làm cho đời sống và sự thờ phượng của chúng ta được phong phú thêm, và nguyện Ngài ưng ban cho chúng ta những Thi thiên mới trong sự thờ phượng khi chúng ta tiếp tục thờ lạy Đức Chúa Trời qua thơ văn và bài hát. Tôi kết thúc với một bài thơ được viết ra bởi Lớp 4 Trường Chúa Nhật trong nhà thờ của chúng ta khi đáp ứng lại với sự nghiên cứu sách Thi thiên của họ:
Bài Thơ Lớp 4 Trường Chúa Nhật
Tôi được dạy dỗ và tôi tin
Thơ văn Hybálai không nương nhiều vào thể văn; nó dựa vào sự lặp đi lặp lại và sự phán triển của tư tưởng từ dòng nầy cho đến dòng kế. Sự lặp đi lặp lại nầy được biết là “thể đối”. Trong thể đối đồng nghĩa, dòng thứ nhứt vang dội nơi dòng thứ hai, chỉ với một sự thay đổi nhẹ ở từ ngữ mà thôi:
“Nhân sao các ngoại bang náo loạn? Và những dân tộc toan mưu chước hư không?” (Thi thiên 2:1; cũng xem 3:1).
Trong thể đối chọi nhau, từ ngữ của dòng thứ nhứt được khẳng định ở dòng thứ hai, không phải bởi sự lặp đi lặp lại, mà bởi đối chiếu:
“Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong” (Thi thiên 1:6; cũng xem 40:4).
Trong thể đối tiệm tiến, dòng thứ hai xác định, phát triển, và hoàn tất tư tưởng của dòng thứ nhứt:
“Hỡi các họ hàng của muôn dân, đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giê-hô-va! (Thi thiên 96:7)
Có nhiều loại thể đối khác nữa, nhưng bài học nầy cung ứng cho bạn một số trường hợp cho thấy thể nào phép đối là xương sống của thơ văn Hybálai. Đức Chúa Trời khôn ngoan và giàu ơn dường nào khi sử dụng thơ văn Hybálai, thay vì loại thơ văn mà chúng ta vốn quen thuộc. Bạn có thể hình dung khó khăn dường nào khi dịch bài thơ “Mary có con chiên nhỏ” thành ngôn ngữ Hybálai không? Thơ văn Hybálai là hình thức thơ văn chuyển dịch dễ dàng nhứt mà tôi có biết đến, và đây là thơ văn mà Đức Chúa Trời đã chọn cho sách Thi thiên.
Thơ văn là môi giới của sự bày tỏ làm cho sự truyền đạt những cảm xúc và tình cảm sâu sắc được thuận tiện hơn. Khi cha tôi có mặt ở đơn vị Hải quân trong Đệ II Thế Chiến, ông đã viết những vầng thơ gửi cho mẹ tôi. (Thực ra, cho tới mới đây, cha tôi đã viết một bài thơ cho mỗi đứa con và cháu của ông cho ngày sinh nhựt của chúng). Trong những năm tháng chức vụ của tôi ở trong tù, tôi đã bị sốc khi biết được nhiều tù phạm đã làm thơ. Vì một lý do nào đó, điều nầy được xem là một phương thức tỏ ra mọi cảm xúc đáng chấp nhận của họ (một việc không được thực hiện ở trong tù).
Vì sách Thi thiên là thơ văn, chúng phải được giải thích theo một tư thế khác biệt hơn loại truyện kể lịch sử. Chúng ta trông mong những điều hay đẹp từ những câu nói. Chúng ta biết nên nắm lấy từng lời một theo nghĩa đen. Thí dụ, chúng ta đọc trong sách Thi thiên:
“Nguyện các sông vỗ tay, núi non cùng nhau hát vui mừng trước mặt Đức Giê-hô-va! (Thi thiên 98:8).
(2) Sách Thi thiên là những bài ca. Từ Hybálai Tehillim được lấy làm đề tựa của sách Thi thiên trong quyển Kinh thánh Hebrew có ý nói: “những bài ca ngợi khen”. Những câu nói được thấy ở đầu dòng của nhiều Thi thiên thường là thuật ngữ âm nhạc. Đôi khi có một tham khảo đến “ca trưởng” trong câu đầu của Thi thiên (thí dụ, các Thi thiên 4, 5, 6, 8, 9, v.v…). Những nhạc cụ đa dạng đã được nói tới, tỉ như sáo (Thi thiên 5) và các nhạc cụ bằng dây (các Thi thiên 4, 6, 54, 55).
Âm nhạc đóng một vai quan trọng trong sự thờ phượng của người Israel xưa kia, giống như âm nhạc có trong nhà thờ trải qua các thế đại và chuyền xuống hiện tại. Martin Luther từng nói:
“Người nào xem thường âm nhạc … người đó không hài hòa với tôi. Âm nhạc là một món quà đến từ Đức Chúa Trời, chớ không phải món quà của loài người … . Sau thần học, tôi đặt âm nhạc ở chỗ cao nhất và vinh dự nhứt”.
Âm nhạc không phải là một phần phụ trong sự thờ phượng của chúng ta; nó đóng một vai trò cơ bản trong đời sống của chúng ta. Âm nhạc của David không cứ cách nào đó đã làm cho tâm linh rối rắm như thuộc về ma quỉ của Saulơ phải bình tịnh lại (I Samuên 16:14-23). Những mặc khải có tính tiên tri qua Thánh Linh của Đức Chúa Trời được kếu cấu với âm nhạc ít nhứt ở hai trường hợp (I Các Vua 10:5-6, 9-11; II Các Vua 3:15).
Người Do thái xưa kia đều biết rõ giai điệu ít nhất ở một số Thi thiên:
“Thơ con cháu Côrê làm, để dạy dỗ về ái tình. Cho thầy nhạc chánh, theo điếu “Sô-san-nim” (lời tựa cho Thi thiên 45).
Dọc theo thời gian thì lý do của nhiều Thi thiên đã bị đánh mất đi, và tôi có khuynh hướng nghĩ rằng điều nầy chẳng phải là tình cờ. Sự việc xảy ra như thế để cho chúng ta phải hát lên các Thi thiên mà chúng ta phải đặt âm nhạc cho chúng, âm nhạc của chính chúng ta. Đúng là phải như thế đấy. Bạn có thể hình dung từng chữ một được gắn với các nốt nhạc khi các Thi thiên được phiên dịch ra? Đôi khi, thích ứng với cách dịch thuật, sẽ có nhiều chữ được ghi lại hai lần, và ở các lần khác thì đảo lại. Một số từ ngữ Hybálai PHẢI được phiên dịch với một cụm từ, vì thế sẽ buộc phải có nhiều chữ hơn.
Đức Chúa Trời vốn biết rõ các Thi thiên sẽ được chuyển dịch thành nhiều, nhiều thứ ngôn ngữ, và từng nhóm ngôn ngữ sẽ có văn hóa, âm nhạc và sự ưa thích riêng của nó. Các Thi thiên khích lệ chúng ta viết nhạc phối mà chúng ta thấy thích ứng với Thi thiên và với văn hóa của chúng ta.
Đôi lúc tôi rất vui khi có người đứng dậy rồi nói: “Chúng ta có thể hát bài số 256, và chúng ta sẽ hát bài ấy với tư thế thờ phượng không?” Tư thế thờ phượng có ý nói tới nhiều việc khác nhau cho các dân tộc khác nhau. Đối với dân nầy, nó có nghĩa là hát lên với điệu cappella; với các dân khác nó có nghĩa là hát lên cách từ từ, dịu dàng; với các dân khác nữa nó có nghĩa là hát lớn tiếng, có lẽ thêm vỗ tay vào nữa. Sách Thi thiên không chứa bất kỳ loại nhạc nào được quy định để chúng ta có thể đặt lời lẽ đầy cảm hứng nầy vào âm nhạc theo một phương thức thích hợp với mạng văn hóa riêng của chúng ta. Tất nhiên, điều nầy nằm trong các phép tắc có giới hạn, nhưng có một sự tự do rất lớn ở đây.
(3) Sách Thi thiên là biểu hiện của sự thờ phượng. Thi thiên là biểu hiện phản ứng của con người đối với Đức Chúa Trời theo ánh sáng mọi hoàn cảnh của mình. Phạm vi mọi hoàn cảnh thôi thúc là rất rộng trong sách Thi thiên. Với đôi lời lưu ý, Ron Allen đã chia Kinh thánh thành ba phạm trù chính: khải thị, suy gẫm và đáp ứng. Thí dụ, khải thị bao gồm những truyện tích trong Kinh thánh. Suy gẫm bao gồm một số sách dạy về sự khôn ngoan, tỉ như sách Châm ngôn. Đáp ứng sẽ được biểu hiện trong sách Thi thiên.
Thường thì các Thi thiên là phần đáp ứng công khai của một người đối với Đức Chúa Trời như một kết quả tự nhiên của việc gặp gỡ riêng tư với Đức Chúa Trời. Chúng ta nhìn thấy tác giả Thi thiên tỏ ra sự thờ phượng của họ đối với Đức Chúa Trời như sự ứng nghiệm lời thề của họ phải ngợi khen Đức Chúa Trời cách công khai vì sự can thiệp của Ngài trong đời sống khi đáp trả mọi lời cầu xin của họ:
“Tôi sẽ trả xong cho Đức Giê-hô-va các sự tôi hứa nguyện, tại trước mặt cả dân sự Ngài” (Thi thiên 116:14).
“Sự ngợi khen của tôi tại giữa hội lớn do Chúa mà ra; Tôi sẽ trả xong sự hứa nguyện tôi trước mặt những kẻ kính sợ Chúa” (Thi thiên 22:25; cũng xem 66:13-16)
Tác giả Thi thiên thường thúc giục đồng bào Do thái của mình hiệp cùng ông trong sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Ở Rôma 12:15, chúng ta được khuyên phải: “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc”.
Tác giả Thi thiên hiển nhiên làm cho việc nầy được thuận tiện hơn. Chúng ta có khả năng không những bước vào kinh nghiệm của tác giả Thi thiên, mà còn bước vào nhưng tư tưởng sâu kín của họ, đặc biệt các tư tưởng của họ về Đức Chúa Trời:
“Đức Chúa Trời ôi! linh hồn tôi mơ ước Chúa, Như con nai cái thèm khát khe nước. Linh hồn tôi khát khao Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống: Tôi sẽ đến ra mắt Đức Chúa Trời chừng nào? Đang khi người ta hằng hỏi tôi: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm. Xưa tôi đi cùng đoàn chúng, Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời, Có tiếng reo mừng và khen ngợi. Một đoàn đông giữ lễ; Rày tôi nhớ lại điều ấy, và lòng buồn thảm. Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? Hãy trông cậy nơi Đức Chúa Trời; ta sẽ còn ngợi khen Ngài nữa; Vì nhờ mặt Ngài, bèn được cứu rỗi. Đức Chúa Trời tôi ôi! linh hồn tôi bị sờn ngã trong mình tôi; Nên từ xứ Giô-đanh, Từ núi Hẹt-môn, và từ gò Mít-sê-a, tôi nhớ đến Chúa. Vực gọi vực theo tiếng ào ào của thác nước Chúa; Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi. Dầu vậy, ban ngày Đức Giê-hô-va sẽ sai khiến sự nhân từ Ngài; Còn ban đêm bài hát Ngài ở cùng tôi, Tức là bài cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời của mạng sống tôi. Tôi sẽ thưa cùng Đức Chúa Trời, là hòn đá tôi, rằng: Cớ sao Chúa quên tôi? Nhân sao tôi phải buồn thảm Vì cớ kẻ thù nghịch hà hiếp tôi?” (Thi thiên 42:1-9)
(4) Các Thi thiên là những lời cầu nguyện:
“Chung các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai” (Thi thiên 72:20).
Ở một thời điểm, cần phải chú ý đến lời “cầu nguyện của Giabe”.
Giabe kêu cầu cùng Đức Chúa Trời của Israel: “Chớ chi Chúa ban phước cho tôi, mở bờ cõi tôi rộng lớn; nguyện tay Chúa phù giúp tôi, giữ tôi được khỏi sự dữ, hầu cho tôi chẳng buồn rầu! Đức Chúa Trời bèn ban cho y như sự người cầu nguyện” (I Sử ký 4:10).
Tôi không gắng sức để chê trách những người nào bắt chước theo lời “cầu nguyện của Gia be” nầy, song tôi muốn chỉ ra rằng các Thi thiên đều là những lời cầu nguyện đặc biệt được ghi ra cho sự lặp đi lặp lại. Tôi không hoàn toàn nhất định về lời cầu nguyện của Giabe. Thực vậy, đối với tôi dường như phần lớn các Thi thiên đều là lời cầu nguyện của nhiều người, họ đã thấy mình ở trong những hoàn cảnh khó khăn. Chúng thường là những lời cầu nguyện xin sự giải cứu ra khỏi nguy hiểm và sự chết, chớ không phải những lời cầu nguyện xin được thịnh vượng đâu. Tôi có khuynh hướng nói rằng lời cầu nguyện của Giabe là hạn hẹp trong mục tiêu của nó (chỉ nhắm vào Giabe và cuộc sống an lành của người mà thôi), trong khi các Thi thiên tập trung vào Đức Chúa Trời, và chúng nhất định “tán rộng” trong các giới hạn nội dung của chúng.
(5) Các Thi thiên đều có sự dạy dỗ. Các Thi thiên là một sự tóm tắt, một sự cô đọng, về thần học Cựu Ước. Các Thi thiên rất phong phú trong nội dung của chúng một khi chúng quan tâm đến vấn đề giáo lý. Chúng ta thấy các thuộc tánh của Đức Chúa Trời là một lẽ đạo thường xuyên trong các Thi thiên. Chúng ta thấy luật pháp tác động rất dễ bộc lộ trong các Thi thiên. Các Thi thiên cũng tóm tắt lịch sử những lần xử lý của Đức Chúa Trời với con người trong Cựu Ước (xem Thi thiên 78, 105). Các Thi thiên có chứa lời tiên tri, như chúng ta sẽ chỉ ra trong bài học kế tiếp. Các Thi thiên tạo điều kiện dễ dàng cho việc học hỏi Lời Đức Chúa Trời và học thuộc lòng Lời ấy. Thí dụ, thi thiên 119, được sắp đặt theo mẫu tự. Từng mảng trong Thi thiên bắt đầu với mẫu tự kế tiếp. Các Thi thiên rất phong phú trong sự dạy dỗ. Cái thấy rõ ràng nhất mà chúng ta được cung ứng cho là về luật pháp Cựu Ước:
“Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy. Các điều răn Chúa làm cho tôi khôn ngoan hơn kẻ thù nghịch tôi, vì các điều răn ấy ở cùng tôi luôn luôn. Tôi có trí hiểu hơn hết thảy kẻ dạy tôi, vì tôi suy gẫm các chứng cớ Chúa. Tôi thông hiểu hơn kẻ già cả, vì có gìn giữ các giềng mối Chúa. Tôi giữ chân tôi khỏi mọi đường tà, để gìn giữ lời của Chúa. Tôi không xây bỏ mạng lịnh Chúa; Vì Chúa đã dạy dỗ tôi. Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi! Nhờ giềng mối Chúa tôi được sự thông sáng; Vì vậy, tôi ghét mọi đường giả dối” (Thi thiên 119:97-104).
(6) Các Thi thiên nói thay cho chúng ta. Chúng ta biết rằng các Thi thiên nói với chúng ta, nhưng chúng cũng nói thay cho chúng ta nữa. Các Thi thiên có thể biểu hiện cho tấm lòng và tư tưởng của chúng ta tốt hơn lời lẽ chúng ta có thể biểu hiện. Ở vài trường hợp, người ta hỏi tôi không biết Rôma 8:26-27 có phải là phân đoạn minh chứng cho việc nói tiếng lạ hay không:
“Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy” (Rôma 8:26-27).
Không cần phải tìm cách lao mình vào một cuộc tranh cãi về ân tứ nói tiếng lạ, tôi muốn nói rằng dù một tín hữu nào có ân tứ nầy đang hiện hữu hôm nay hay không, tôi không nghĩ Rôma 8:26-27 đang đề cập tới ân tứ nói tiếng lạ. Phân đoạn Kinh thánh nầy nói cho chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh vùa giúp chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời, đặc biệt khi chúng ta dường như không thể tìm được lời lẽ để bày tỏ ra nổi lòng của chúng ta với Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng truyền đạt từ Đức Chúa Trời cho chúng ta những việc mà lý trí tự nhiên của chúng ta không sao hiểu được:
“Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự dồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng. Nhưng người có tánh thiêng liêng xử đoán mọi sự, và chính mình không bị ai xử đoán. Vì ai đã biết ý Chúa, đặng dạy dỗ Ngài? Nhưng phần chúng ta, thì có ý của Đấng Christ” (I Côrinhtô 2:14-16).
Sự truyền đạt nầy từ Đức Chúa Trời không phải bởi phương tiện ân tứ tiếng lạ đâu. Thực vậy, không có sự thông giải, thậm chí chúng ta còn không biết điều chi đã được nói ra bằng tiếng lạ (xem I Côrinhtô 14:6-19). Hơn nữa, Kinh thánh nói rõ ràng rằng ân tứ tiếng lạ chỉ được ban ra cho một vài người, nhưng không phải ban ra cho tất cả các thánh đồ, giống như các ân tứ khác (I Côrinhtô 12:29-30). Nếu ân tứ tiếng lạ là phương tiện bởi đó chúng ta có khả năng truyền đạt mọi suy tưởng không thể bày tỏ ra với Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện, thế thì không phải các thánh đồ đều có khả năng ấy, vì không phải mọi thánh đồ đều nói tiếng lạ.
Mục đích của tôi ở đây, ấy là vấn đề được nói ra trong Rôma 8:26-27 phải là một điều khoản chung cho tất cả các thánh đồ, chớ không chỉ cho một số người. Các Thi thiên là một phương tiện bởi đó Thánh Linh của Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta phát ra rõ ràng những suy tưởng và than van của tấm lòng chúng ta. Tấm lòng làm cho chúng ta phải bối rối, song chúng ta dường như không thể chỉ ngón tay vào những gì thực sự gây rối rắm cho chúng ta. Khi ấy, chúng ta quay sang các Thi thiên và tìm được một Thi thiên thích ứng đặc biệt mô tả sự vất vả của riêng chúng ta. Tôi không cho rằng các Thi thiên là điều khoản “chung” duy nhứt mà Thánh Linh của Đức Chúa Trời đặt để cho sự sử dụng của chúng ta, nhưng tôi nghĩ các Thi thiên là một trong những điều khoản của Đức Thánh Linh vùa giúp chúng ta bày tỏ ra những cảm xúc sâu sắc của nổi lòng mình.
Chính Athanasius, một lãnh đạo Hội thánh lỗi lạc trong thế kỷ thứ tư, ông công bố “rằng các Thi thiên đều có một vị trí đặc biệt trong Kinh thánh vì hầu hết Kinh thánh đều phán cùng chúng ta, trong khi các Thi thiên nói thay cho chúng ta”.
Martin Luther thấy các Thi thiên là một ngôi trường cầu nguyện:
“Cơ đốc nhân có thể học cầu nguyện theo tác giả Thi thiên, vì ở đây người có thể nghe thể nào các thánh đồ trò chuyện với Đức Chúa Trời. Nhiều lời cầu xin đã được ghi ra ở đây, sướng và khổ, mong mỏi và quan tâm, đều khả thi cho từng Cơ đốc nhân nào tìm thấy chính mình trong đó, và hãy cầu nguyện với các Thi thiên”.
Một cái nhìn vắn tắt vào Thi thiên 73
Tôi đã chọn Thi thiên 73 để chứng minh cách thức các Thi thiên dạy dỗ thần học trong đó. Thi thiên 73 nói tới nan đề điều ác, giống như Thi thiên 37 và các Thi thiên khác vậy. Thi thiên 73 là một trong các Thi thiên kết thúc với một âm hưởng sung sướng. Không phải mỗi Thi thiên đều kết thúc theo cách nầy. Trong một số Thi thiên, tác giả Thi thiên kêu la với Đức Chúa Trời cầu xin sự giải cứu hay sự can thiệp thiêng liêng vì Đức Chúa Trời đã không hành động chi hết. Trong các trường hợp như thế, tác giả Thi thiên chỉ phó mình nơi Đức Chúa Trời của Kinh thánh và tin cậy nơi Ngài bất chấp mọi cảnh ngộ của mình, chiếu theo bổn tánh, những lời hứa giao ước, và mọi hành động của Ngài trong quá khứ (xem, thí dụ, các Thi thiên 6, 13, 34, 44, 74, 79, 80, 89, 94). Tuy nhiên, trong Thi thiên 73, tác giả Thi thiên đạt tới cách giải quyết cho nan đề của mình, là điều ông tỏ ra trong Thi thiên của ông. Chúng ta hãy xem xét cách vắn tắt nan đề của tác giả Thi thiên, giải pháp mà ông đạt tới, và phản ứng của ông đối với Đức Chúa Trời.
Tác giả của Thi thiên nầy là Asáp, tác giả của 12 trong số các Thi thiên. Asáp là “chánh trong sự thờ phượng”, ông đã phục vụ trước hòm giao ước của Đức Giêhôva (I Sử ký 16:4-5). Tôi có thể hình dung được phần nhiều sự thống khổ của ông đã đến từ việc nhìn vào những kẻ đến thờ phượng, với sự nhận biết một số người đã sống rất giả hình. Tình trạng chẳng đặng đừng của Asáp dựa theo lời hứa cơ bản nầy, mà mỗi người Do thái đều tin theo:
“Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành, tức là những người có lòng trong sạch” (Thi thiên 73:1)
Giao ước với Môise bảo đảm với dân sự của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ chúc phước cho người nào sống công nghĩa và Ngài sẽ sửa phạt kẻ ác. Khi Asáp để ý thấy có nhiều người trong chỗ ông thi hành chức vụ, lời hứa nầy dường như chưa xảy ra. Thực vậy, dường như là chỉ có điều ngược lại đang xảy ra mà thôi – trông như là Đức Chúa Trời đã chúc phước cho kẻ ác, hay tệ hại hơn, kẻ ác đang thịnh vượng và Đức Chúa Trời dường như không biết tới hay chẳng quan tâm đến!
“Còn về phần tôi, chân tôi đã gần vấp, xuýt chút bước tôi phải trợt. Vì khi tôi thấy sự hưng thạnh của kẻ ác, thì có lòng ganh ghét kẻ kiêu ngạo. Vì trong cơn chết chúng nó chẳng bị đau đớn; Sức lực của chúng nó vẫn đầy đủ. Chúng nó chẳng bị nạn khổ như người khác, cũng không bị tai họa như người đời. Bởi cớ ấy sự kiêu ngạo làm cây kiền cho cổ chúng nó; Sự hung bạo bao phủ chúng nó như cái áo. Mắt chúng nó lộ ra trong mỡ; Tư tưởng lòng chúng nó tuôn tràn ra. Chúng nó nhạo báng, nói về sự hà hiếp cách hung ác: Chúng nó nói cách cao kỳ. Miệng thì nói hành thiên thượng, còn lưỡi lại phao vu thế gian. Vì cớ ấy dân sự Ngài xây về hướng đó, và chúng nó uống nước cạn chén. Chúng nó rằng: Làm sao Đức Chúa Trời biết được? Há có sự tri thức nơi Đấng Chí cao sao? Kìa là những kẻ ác, Chúng nó bình an vô sự luôn luôn, nên của cải chúng nó thêm lên” (Thi thiên 73:2-12).
Asáp nói rõ rằng ông đã phạm tội bằng cách nghi ngờ sự nhơn từ và bằng cách ghen tỵ với kẻ ác kèm theo với sự giàu có của họ. Nội dung của toàn bộ Thi thiên sẽ cho chúng ta thấy rõ ràng rằng nhận thức của Asáp không chính xác lắm. Không phải ai thịnh vượng cũng là gian ác cả đâu, cũng không phải tất cả người công bình đều nghèo khó và bị lấn lướt. Sự thực cho thấy rằng kẻ ác không hoàn toàn tránh khỏi đau khổ. Asáp đã nhìn thấy một vài người sống gian ác, họ cũng rất giàu có, và dường như họ tránh được đau khổ. Cái điều làm cho vấn đề ra tệ hại hơn, ấy là chính những kẻ ấy sống rất kiêu căng về tội lỗi của họ, khoe khoang về nó (câu 8). Dường như họ làm và nói giống như họ chính là Đức Chúa Trời vậy. Họ sống kiêu ngạo đến nỗi thậm chí họ đã nói nghịch cùng Đức Chúa Trời (câu 9). Họ dám nghĩ và nói rằng Đức Chúa Trời phải biết rõ hay quan tâm đến cách họ đã hành xử (các câu 10-11). Để tóm lược lại, giống như Asáp đã nhìn vào kẻ ác, ông đã ghen tỵ với sự giàu có của họ, và ông bắt đầu hồ nghi lời hứa cơ bản rằng Đức Chúa Trời ban thưởng cho người công bình và sửa phạt kẻ ác. Gần như ông chối bỏ một trong những điều cơ bản của đức tin Do thái:
“Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hêbơrơ 11:6).
Asáp xưng nhận thể nào ông đã đến gần với việc “ném mình vào tháp ngà” rồi chịu thua:
“Tôi đã làm cho lòng tôi tinh sạch, và rửa tay tôi trong sự vô tội, việc ấy thật lấy làm luống công, Vì hằng ngày tôi phải gian nan, mỗi buổi mai tôi bị sửa phạt” (Thi thiên 73:13-14).
Có điều chi tốt lành đã được làm ra cách công bình cho ông, Asáp thắc mắc như thế!?! Tất nhiên, điều nầy cho rằng ông thực sự sống công bình – một giả tưởng rất nguy hiểm:
“Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi” (Êsai 64:6).
Asáp thành thực xưng ra tội lỗi mình và mối nguy hiểm mà sự ấy gắn cho chính mình ông cùng nhiều người khác:
“Nếu tôi có nói rằng: Ta sẽ nói như vậy; Ắt tôi đã phạm bất trung cùng dòng dõi con cái Chúa” (Thi thiên 73:15).
“Khi lòng tôi chua xót, và dạ tôi xôn xao, thì bấy giờ tôi ở ngu muội, chẳng hiểu biết gì; Trước mặt Chúa tôi ở khác nào một thú vật vậy” (Thi thiên 73:21-22).
Giải pháp cho tình thế của Asáp đã đến khi ông đi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời và có thể nhìn thấy kẻ ác từ nhận thức thiêng liêng và đời đời:
“Khi tôi suy gẫm để hiểu biết điều ấy, bèn thấy là việc cực nhọc quá cho tôi, cho đến khi tôi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời, Suy lượng về sự cuối cùng của chúng nó. Chúa thật đặt chúng nó tại nơi trơn trợt, khiến cho chúng nó hư nát. Ủa kìa, chúng nó bị hủy diệt trong một lát! Chúng nó vì kinh khiếp mà phải tiêu hao hết trọi. Hỡi Chúa, người ta khinh dể chiêm bao khi tỉnh thức thể nào, Chúa khi tỉnh thức cũng sẽ khinh dể hình dạng chúng nó thể ấy” (Thi thiên 73:16-20).
Tôi nhớ có lần anh tôi và tôi đi đánh bắt cá hồi trên một chiếc thuyền ở bờ biển Oregon. Việc đánh bắt không được mỹ mãn lắm trong ngày đặc biệt đó (thường là như vậy với tôi và việc đánh bắt cá). Nhưng có một thành viên trên thuyền, ông ta cứ ngồi ì với quyển tạp chí bẩn thỉu kia khi ông ta ngồi đợi cá cắn câu, và chúng đã cắn câu – ít nhất là cho ông ta. Tôi đã nói ra một việc với anh tôi về sự bất công của sự việc nầy (chắc chắn Đức Chúa Trời đã lèo lái một con cá hồi đến với cần câu của tôi), và anh ấy đã đáp rất khôn khéo: “Đây là mọi sự khoái lạc mà ông nầy đã có; chúng ta được đưa lên trời để nhìn xuống mới phải”. Tất nhiên là anh ấy đã nói đúng. Đấy là điều mà Asáp cũng đã đạt tới, khi ông giờ đây nhìn vào sự thịnh vượng của kẻ ác từ một nhận định đời đời.
Asáp giờ đây nhìn vào chính những con người nầy, nhưng từ một nhận thức thiêng liêng. Ông nhìn thấy không những sự giàu có hiện tại của họ, mà còn nhìn thấy số phận đời đời của họ nữa. Có phải kẻ ác đang thịnh vượng không? Nếu thực vậy, sự thịnh vượng của họ chỉ trong một lúc mà thôi. Nhưng bất chấp sự kiêu căng và sự an ninh hiện tại của họ, tương lai của họ không bảo đảm lắm đâu. Đức Chúa Trời một ngày kia sẽ giáng xuống kẻ ác, và họ sẽ trả giá cho tội lỗi của họ. Sự giàu có của họ đột nhiên sẽ tan tác giống như giấc chiêm bao vậy. Khi Đức Chúa Trời “tỉnh thức”, Ngài sẽ xử lý với họ tùy theo tội lỗi của họ.
Asáp giờ đây nhận định mọi cảnh ngộ của mình từ một nhận thức thiêng liêng:
“Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa? Còn dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa. Thịt và lòng tôi bị tiêu hao; Nhưng Đức Chúa Trời là sức lực của lòng tôi, và là phần tôi đến đời đời” (Thi thiên 73:25-26).
Trong sự thịnh vượng của họ, kẻ ác đã ăn nói kiêu căng nghịch cùng Đức Chúa Trời (xem các câu 8-12). Sự thịnh vượng đã không kéo họ đến gần Đức Chúa Trời hơn. Mặt khác, Asáp giờ đây kỉnh kiền nhận thức được tình trạng được phước của sự mật thiết với Đức Chúa Trời. Trong khi đời sống của ông có thể không được đánh dấu bởi sự sung túc và an nhàn, ông nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đang ở với ông. “Tình trạng nghèo khó” của ông (ít nhất khi đem sánh với kẻ giàu có gian ác) đã kéo ông đến gần Đức Chúa Trời hơn. Và cuộc sống đời nầy của ông với Đức Chúa Trời cũng vậy, nó luôn tốt hơn với đời sống của kẻ ác. Và trên hết mọi sự, mối quan hệ đời nầy của ông với Đức Chúa Trời mới chỉ là phần khởi đầu. Ông được bảo đảm về mối tương giao đời đời với Đức Chúa Trời trong sự hiện diện của Ngài.
Nếu Asáp cần phải kết luận rằng kẻ ác đang “có cuộc sống tốt nhứt” trong lúc bây giờ, nhưng rồi hắn sẽ “có cuộc sống tốt nhứt” trong cõi đời đời, ông sẽ rơi vào chỗ sai lầm. Asáp đang có cuộc sống tốt nhứt, ngay bây giờ và cho đến đời đời. Asáp giờ đây đã đạt tới một xác định rất khác biệt về điều tốt đẹp:
“Nhưng lấy làm tốt thay cho tôi đến gần Đức Chúa Trời; Tôi nhờ Chúa Giê-hô-va làm nơi nương náu mình, đặng thuật lại hết thảy các công việc Ngài” (Thi thiên 73:28).
Asáp đã bắt đầu với câu nói: “Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành” (73:1a). Đối với Asáp, như với bao người khác, câu nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước về mặt vật chất cho những ai có động lực của họ trong sạch. Asáp giờ đây nhìn xem mọi sự rất khác biệt. Ông nhận ra rằng mọi động lực của ông là không thanh sạch (xem 73:15, 21-22). Ông không xứng đáng với mọi ơn phước của Đức Chúa Trời. Và hơn nữa, sự nhơn từ của Đức Chúa Trời không sao đánh giá được bằng những đồng đôla, song bằng sự đến gần với Đức Chúa Trời kìa.
Có bao nhiêu người trong chúng ta đang phạm tội cứ suy nghĩ theo những giới hạn sai sót không đúng như thế? Khi chúng ta nghĩ đến thiên đàng, chúng ta thường nghĩ đến những con đường lót vàng, hay sẽ chẳng còn có nước mắt nữa, không còn có buồn thảm nữa, chẳng còn có sự chết nữa. Trong khi điều nầy là sự thực, ơn phước lớn lao nhất của thiên đàng, đây là nơi Đức Chúa Trời đang ngự trị. Thiên đàng được phước vì ở đó chúng ta có thể tận hưởng sự mật thiết không gì ngăn trở được với Đức Chúa Trời trong mọi sự đời đời. Những đau khổ của chúng ta là phương tiện giúp thả lỏng cái nắm bắt của chúng ta về đời nầy cùng những thứ vật chất của nó rồi nâng cao sự khát khao của chúng ta về thiên đàng:
“Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn. Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (II Côrinhtô 4:16-18).
Nhiều sách báo đã được viết ra về nan đề đau đớn và sự khổ ải của con người. Thi thiên nầy cho rằng cần phải có nhiều nổ lực cao quý để giải quyết vấn đề đau khổ của con người. Đây là một phương pháp chưng cất chân lý của Kinh thánh. Nó sửa chữa một số quan niệm sai lầm rất thông thường về Cơ đốc nhân và sự chịu khổ (và sự thịnh vượng). Nó làm thế chỉ với một vài từ ngữ. Đúng là một kho báu kỳ diệu của lẽ thật cần phải được tìm gặp trong sách Thi thiên. Không lạ gì khi các Thi thiên đóng một vai quan trọng trong các Hội thánh Tân Ước:
“Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa” (Êphêsô 5:18-19).
“Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (Côlôse 3:16).
Nếu tôi ý thức có thiếu sót nào trong đời sống Cơ đốc của chính tôi, một trong số nầy nằm trong lãnh vực thờ phượng. Các Thi thiên là mỏ vàng tư liệu cho sự thờ phượng. Chúng cung ứng không những nội dung mà còn công thức cho sự ngợi khen và sự thờ phượng nữa – riêng và chung. Các Thi thiên giúp tôi biết ngợi khen Đức Chúa Trời trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Các Thi thiên tỏ ra một sự trung thực, cởi mở, và minh bạch trong sự thờ phượng nào thường thiếu sót nơi sự thờ phượng của tôi. Đối với tôi, có lẽ quan trọng nhất, các Thi thiên giúp tôi kinh nghiệm nhiều hơn một Cơ đốc giáo theo nghi lễ – một loại đức tin theo trí khôn. Các Thi thiên đột nhập vào tấm lòng và mọi tình cảm của tôi, cũng như trong lý trí của tôi vậy.
Các Thi thiên cũng có tính cách dạy dỗ khi tôi tham gia công khai vào sự thờ phượng chung của nhà thờ. Trong nhà thờ của chúng ta, chúng ta có buổi nhóm lại công khai, ở đó nhiều người công khai hướng dẫn vào sự thờ phượng và ở đó chúng ta tham dự Tiệc Thánh của Chúa hàng tuần. Nếu sự dự phần của tôi trong buổi nhóm nầy được dẫn dắt bởi các Thi thiên, khi ấy chính kinh nghiệm và sự gặp gỡ của tôi với Đức Chúa Trời trong cả tuần lễ sẽ cung ứng những vật liệu thô cho sự dự phần của tôi vào ngày Chúa nhật. Việc ấy hoàn toàn chẳng quan trọng ở chỗ sự dự phần của tôi khởi sự cũng như chỗ nó kết thúc. Phần nhiều các Thi thiên đều được sản sinh ra trong những tình huống khiêm hạ, tỉ như sự điên dại của David ở trước mặt Abimêléc (Thi thiên 34:1). Tuy nhiên, thi thiên của David nhắm vào sự oai nghi của lòng thương xót và ơn giải cứu của Đức Chúa Trời. Một vài người trong nhà thờ của chúng ta đã đến gần với sự chết, và có người đã qua đời để đi ở với Chúa. Lời lẽ của họ về sự thờ phượng đã giục giã chúng ta kéo đến gần Đức Chúa Trời và để cùng với họ ngợi khen Đức Chúa Trời. Các Thi thiên không nói về chúng ta, mà nói về Đức Chúa Trời. Chúng khởi sự với kinh nghiệm của chúng ta, nhưng chúng chú trọng vào Đức Chúa Trời, và chúng là một biểu hiện của sự thờ phượng.
Các Thi thiên nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta phải nên sửa soạn cho cuộc thờ phượng. Các Thi thiên không phải là sự biểu hiện tự phát của sự thờ phượng, mà cẩn thận suy nghĩ và là những lời ca ngợi và cầu xin đã được hình thành thật xinh đẹp. Các Thi thiên đã dè chừng chúng ta không nên cẩu thả trong sự thờ phượng của mình và về việc đến với nhà thờ mà chưa sửa soạn để hướng dẫn người khác bước vào sự thờ phượng. Trong khi một số nhà thờ có các cấp lãnh đạo của họ trong sự thờ phượng, dường như đối với tôi là mỗi người nào hướng dẫn trong sự thờ phượng phải thể hiện phần việc của mình trong vai trò một người hướng dẫn thờ phượng, kêu gọi sự chú ý của dân sự vào Đức Chúa Trời, và để thách thức, tạo cảm hứng cho họ lo thờ lạy Ngài.
Nguyện Đức Chúa Trời sử dụng các Thi thiên để làm cho đời sống và sự thờ phượng của chúng ta được phong phú thêm, và nguyện Ngài ưng ban cho chúng ta những Thi thiên mới trong sự thờ phượng khi chúng ta tiếp tục thờ lạy Đức Chúa Trời qua thơ văn và bài hát. Tôi kết thúc với một bài thơ được viết ra bởi Lớp 4 Trường Chúa Nhật trong nhà thờ của chúng ta khi đáp ứng lại với sự nghiên cứu sách Thi thiên của họ:
Bài Thơ Lớp 4 Trường Chúa Nhật
Tôi được dạy dỗ và tôi tin
Chúa Jêsus là Đấng chết thay cho tôi
Ngài là Đấng mà chúng ta chiến đấu cho?
Vua các vua và Chúa các chúa
Ngài là Đấng ban cho chúng ta ân điển?
Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài là Đấng ban ơn cứu.
Một ngày kia, Ngài sẽ tái lâm
Đem con cái Ngài về quê hương với Ngài
Hãy ca ngợi Ngài
Một-hai
Ba-bốn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét