Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011

Các Thi thiên, Phần I

Từ sáng tạo đến thập tự giá
Văn chương khôn ngoan:
Các Thi thiên, Phần I
Mục sư
Bob Deffinbaugh
Phần giới thiệu:
Hôm nay đúng là ngày sinh nhật của em gái tôi. Ngoài ra, Lễ Phục Sinh (có lẽ tốt hơn phải nói là “Chúa nhật phục sinh”) chỉ còn cách có một tuần thôi. Đây là thời điểm khi bộ phận lo thiệp chúc mừng của siêu thị sẽ rất bận rộn với những khách hàng tìm kiếm đúng thứ thiệp họ mong muốn. Chúng tôi mua thiệp chúc mừng vì có ai đó đã ghi lời chúc rất hay vào tư tưởng của chúng ta hơn là chúng ta làm việc ấy. Thiệt là kỳ lạ, mặc dù phần nhiều thiệp chúc mừng không thuộc vào loại “Hallmark Card” theo truyền thống – là thứ thiệp dành cho người nào “quan tâm để gửi đi lời chúc hay nhất”. Ngày nay, người ta đúng là có khuynh hướng gửi thứ thiệp có tính cách hài hước khi họ cần phải gửi cho một nhân vật quan trọng, đặc biệt ngày sinh nhật, ngày kỷ niệm, và thậm chí thứ thiệp cho người yêu nữa. Khi các mối quan hệ đậm sâu hơn, người ta có những cảm xúc mạnh mẽ, và họ phấn đấu để tìm đúng những câu phải lẽ để trao đối với họ. Giờ đây, có nhiều người không thực sự muốn có mối quan hệ thân mật, vì vậy họ gửi đi loại thiệp có tính hóm hỉnh, thứ thiệp không bao giờ nhận lại được gì dưới bộ mặt quan hệ ấy.
Sách Thi thiên là thứ đại loại giống như bộ phận “Hallmark Cards” trong Kinh thánh vậy. Ở đây, chúng ta tìm thấy những lời lẽ tỏ ra những cảm xúc sâu sắc và mạnh mẽ nhất của mình, vô luận là hoàn cảnh nào. Một số Thi thiên bày tỏ sự vui mừng ngợi khen vì những hành động giải cứu của Đức Chúa Trời; nhiều bài khác tỏ ra sự ăn năn và xưng tội; vẫn có những bài khác nữa kêu la với Đức Chúa Trời vì Ngài dường như không biết gì về hoàn cảnh của tác giả. Toàn bộ sắc màu tình cảm của con người đã được tỏ ra trong sách Thi thiên. Chính vì lý do nầy mà nhiều người nam người nữ đã xây sang sách Thi thiên trải qua nhiều thế kỷ. Sách Thi thiên tỏ ra những cảm xúc sâu sắc nhất của tấm lòng.
Tôi có một phần việc rất khó khăn – tôi phải nổ lực xử lý với sách Thi thiên trong hai bài học. Trong bài học nầy, tôi sẽ cố gắng cung ứng một nhận định rộng rãi về các Thi thiên, tìm cách thuyết phục bạn thấy được quyển sách nầy rất có giá trị cho thời gian và sự lưu ý của bạn. Tôi sẽ nổ lực để tỏ ra lý do tại sao sách Thi thiên rất quan trọng như thế và những đóng góp có một không hai mà chúng có cho cả Kinh thánh. Tôi sẽ cố gắng tóm tắt một số đặc điểm của sách Thi thiên. Như vậy, chúng ta sẽ nhìn vắn tắt vào một Thi thiên, ấy là Thi thiên 73. Sau cùng, tôi sẽ tìm cách chỉ ra sách Thi thiên áp dụng cho chúng ta như thế nào và cho sự thờ phượng của chúng ta ngày nay.
Tại sao sách Thi thiên là quan trọng?
Sau sách Êsai, sách Thi thiên là sách Cựu Ước được trưng dẫn thường xuyên nhất trong Tân Ước. Chúa Jêsus chỉ ra rằng sách Thi thiên đã nói về Ngài:
“Đoạn, Ngài phán rằng: Ấy đó là điều mà khi ta còn ở với các ngươi, ta bảo các ngươi rằng mọi sự đã chép về ta trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri, cùng các Thi Thiên phải được ứng nghiệm” (Luca 24:44).
Trên thập tự giá ở đồi Gôgôtha, Chúa Jêsus đã kêu la bằng lời lẽ của Thi thiên 22:1. Các sứ đồ đã sử dụng các Thi thiên để minh chứng rằng Chúa Jêsus là Đấng Mêsi (xem Công Vụ các Sứ Đồ 2:24-36; 12:29-39). Sách Thi thiên cũng đóng một vai quan trọng trong Hội thánh đầu tiên:
“Hỡi anh em, nên nói thể nào? Khi anh em nhóm lại với nhau, trong anh em, ai có bài ca, hoặc bài giảng dạy, hoặc lời tỏ sự kín nhiệm, hoặc nói tiếng lạ, hoặc giải tiếng lạ chăng? Hãy làm hết thảy cho được gây dựng” (I Côrinhtô 14:26).
“Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa” (Êphêsô 5:18-19).
“Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời “(
Côlôse 3:16).
Sách Thi thiên rất quan trọng xuyên suốt lịch sử của Hội thánh. Chrysostom và Augustine có mặt giữa vòng những người đã viết loại sách chú giải về sách Thi thiên. John Calvin đã nói như vầy về sách Thi thiên:
“Quyển sách nầy tôi không muốn kể đấy là một quyền sách phân tích tất cả các chi tiết của linh hồn; vì chẳng có ai khám phá trong chính bản thân mình một cảm xúc đơn điệu mà hình ảnh không phản chiếu qua tấm gương nầy. Mà nầy, tất cả những nổi buồn lo, sợ hãi, nghi ngờ, hy vọng, quan tâm, lo lắng – nói ngắn gọn, tất cả những rung động xôn xao mà lý trí con người sẽ bị xới lên – Đức Thánh Linh đã được mô tả ở đây trong cuộc sống”.
Luther đã nói về sách Thi thiên:
“Sách Thi thiên là quyển sách ưa thích của các thánh đồ … [từng người một], bất luận là hoàn cảnh nào, hãy tìm trong [sách] Thi thiên và lời lẽ nào thích ứng với hoàn cảnh người tìm thấy chính mình trong đó và làm thỏa mãn mọi nhu cần của mình thật thích ứng giống như thể chúng đã được sáng tác riêng vì cớ người vậy, và trong phương thức ấy, bản thân người có thể không tận dụng được chúng cũng không tìm thấy hay ao ước Thi thiên hoặc lời lẽ nào tốt hơn”.
Bernhard Anderson nhắc cho độc giả của ông nhớ rằng Dietrich Bonhoeffer, ông đã bị chế độ Phát xít hành hình, là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc sách Thi thiên. Ấn bản sau cùng của ông trước khi ông qua đời là quyển Sách cầu nguyện của Kinh thánh: Giới thiệu sách Thi thiên (1940). Vào ngày 15 tháng 5 năm 1943, ông đã viết ra mấy lời nầy: “Tôi đang đọc sách Thi thiên mỗi ngày, như tôi đã đọc trong nhiều năm qua. Tôi biết rõ, yêu mến chúng nhiều hơn bất kỳ sách nào khác trong Kinh thánh”.
Đâu là phần đóng góp có một không hai của sách Thi thiên?
(1) Sách Thi thiên là thơ văn. Sách Thi thiên là thơ văn, nhưng không phải loại thơ văn mà nhiều người quen thuộc với đâu. Khi bạn nhìn vào sách Thi thiên trong bản Kinh thánh King James, bạn sẽ khám phá ra rằng khổ sách Thi thiên chẳng khác gì với khuôn khổ của sách Sáng thế ký. Mãi cho đến hơn 100 năm sau, Giám Mục Robert Lowth mới tái khám phá ra cảm hứng của thể thơ Hybálai. Thơ văn Hybálai không giống như thơ văn của chúng ta. Khi chúng ta suy nghĩ về thơ văn, chúng ta nghĩ tới những dòng thơ nầy:
Mary có con chiên nhỏ,

Lông nó trắng như tuyết.

Và hễ Mary đi đến đâu,

Con chiên bèn theo đến đó.
Thơ văn Hybálai không nương nhiều vào thể văn; nó dựa vào sự lặp đi lặp lại và sự phán triển của tư tưởng từ dòng nầy cho đến dòng kế. Sự lặp đi lặp lại nầy được biết là “thể đối”. Trong thể đối đồng nghĩa, dòng thứ nhứt vang dội nơi dòng thứ hai, chỉ với một sự thay đổi nhẹ ở từ ngữ mà thôi:
“Nhân sao các ngoại bang náo loạn? Và những dân tộc toan mưu chước hư không?” (Thi thiên 2:1; cũng xem 3:1).
Trong thể đối chọi nhau, từ ngữ của dòng thứ nhứt được khẳng định ở dòng thứ hai, không phải bởi sự lặp đi lặp lại, mà bởi đối chiếu:
“Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong” (Thi thiên 1:6; cũng xem 40:4).
Trong thể đối tiệm tiến, dòng thứ hai xác định, phát triển, và hoàn tất tư tưởng của dòng thứ nhứt:
“Hỡi các họ hàng của muôn dân, đáng tôn vinh hiển và năng lực cho Đức Giê-hô-va! (Thi thiên 96:7)
Có nhiều loại thể đối khác nữa, nhưng bài học nầy cung ứng cho bạn một số trường hợp cho thấy thể nào phép đối là xương sống của thơ văn Hybálai. Đức Chúa Trời khôn ngoan và giàu ơn dường nào khi sử dụng thơ văn Hybálai, thay vì loại thơ văn mà chúng ta vốn quen thuộc. Bạn có thể hình dung khó khăn dường nào khi dịch bài thơ “Mary có con chiên nhỏ” thành ngôn ngữ Hybálai không? Thơ văn Hybálai là hình thức thơ văn chuyển dịch dễ dàng nhứt mà tôi có biết đến, và đây là thơ văn mà Đức Chúa Trời đã chọn cho sách Thi thiên.
Thơ văn là môi giới của sự bày tỏ làm cho sự truyền đạt những cảm xúc và tình cảm sâu sắc được thuận tiện hơn. Khi cha tôi có mặt ở đơn vị Hải quân trong Đệ II Thế Chiến, ông đã viết những vầng thơ gửi cho mẹ tôi. (Thực ra, cho tới mới đây, cha tôi đã viết một bài thơ cho mỗi đứa con và cháu của ông cho ngày sinh nhựt của chúng). Trong những năm tháng chức vụ của tôi ở trong tù, tôi đã bị sốc khi biết được nhiều tù phạm đã làm thơ. Vì một lý do nào đó, điều nầy được xem là một phương thức tỏ ra mọi cảm xúc đáng chấp nhận của họ (một việc không được thực hiện ở trong tù).
Vì sách Thi thiên là thơ văn, chúng phải được giải thích theo một tư thế khác biệt hơn loại truyện kể lịch sử. Chúng ta trông mong những điều hay đẹp từ những câu nói. Chúng ta biết nên nắm lấy từng lời một theo nghĩa đen. Thí dụ, chúng ta đọc trong sách Thi thiên:
“Nguyện các sông vỗ tay, núi non cùng nhau hát vui mừng trước mặt Đức Giê-hô-va! (Thi thiên 98:8).
(2) Sách Thi thiên là những bài ca. Từ Hybálai Tehillim được lấy làm đề tựa của sách Thi thiên trong quyển Kinh thánh Hebrew có ý nói: “những bài ca ngợi khen”. Những câu nói được thấy ở đầu dòng của nhiều Thi thiên thường là thuật ngữ âm nhạc. Đôi khi có một tham khảo đến “ca trưởng” trong câu đầu của Thi thiên (thí dụ, các Thi thiên 4, 5, 6, 8, 9, v.v…). Những nhạc cụ đa dạng đã được nói tới, tỉ như sáo (Thi thiên 5) và các nhạc cụ bằng dây (các Thi thiên 4, 6, 54, 55).
Âm nhạc đóng một vai quan trọng trong sự thờ phượng của người Israel xưa kia, giống như âm nhạc có trong nhà thờ trải qua các thế đại và chuyền xuống hiện tại. Martin Luther từng nói:
“Người nào xem thường âm nhạc … người đó không hài hòa với tôi. Âm nhạc là một món quà đến từ Đức Chúa Trời, chớ không phải món quà của loài người … . Sau thần học, tôi đặt âm nhạc ở chỗ cao nhất và vinh dự nhứt”.
Âm nhạc không phải là một phần phụ trong sự thờ phượng của chúng ta; nó đóng một vai trò cơ bản trong đời sống của chúng ta. Âm nhạc của David không cứ cách nào đó đã làm cho tâm linh rối rắm như thuộc về ma quỉ của Saulơ phải bình tịnh lại (I Samuên 16:14-23). Những mặc khải có tính tiên tri qua Thánh Linh của Đức Chúa Trời được kếu cấu với âm nhạc ít nhứt ở hai trường hợp (I Các Vua 10:5-6, 9-11; II Các Vua 3:15).
Người Do thái xưa kia đều biết rõ giai điệu ít nhất ở một số Thi thiên:
“Thơ con cháu Côrê làm, để dạy dỗ về ái tình. Cho thầy nhạc chánh, theo điếu “Sô-san-nim” (lời tựa cho Thi thiên 45).
Dọc theo thời gian thì lý do của nhiều Thi thiên đã bị đánh mất đi, và tôi có khuynh hướng nghĩ rằng điều nầy chẳng phải là tình cờ. Sự việc xảy ra như thế để cho chúng ta phải hát lên các Thi thiên mà chúng ta phải đặt âm nhạc cho chúng, âm nhạc của chính chúng ta. Đúng là phải như thế đấy. Bạn có thể hình dung từng chữ một được gắn với các nốt nhạc khi các Thi thiên được phiên dịch ra? Đôi khi, thích ứng với cách dịch thuật, sẽ có nhiều chữ được ghi lại hai lần, và ở các lần khác thì đảo lại. Một số từ ngữ Hybálai PHẢI được phiên dịch với một cụm từ, vì thế sẽ buộc phải có nhiều chữ hơn.
Đức Chúa Trời vốn biết rõ các Thi thiên sẽ được chuyển dịch thành nhiều, nhiều thứ ngôn ngữ, và từng nhóm ngôn ngữ sẽ có văn hóa, âm nhạc và sự ưa thích riêng của nó. Các Thi thiên khích lệ chúng ta viết nhạc phối mà chúng ta thấy thích ứng với Thi thiên và với văn hóa của chúng ta.
Đôi lúc tôi rất vui khi có người đứng dậy rồi nói: “Chúng ta có thể hát bài số 256, và chúng ta sẽ hát bài ấy với tư thế thờ phượng không?” Tư thế thờ phượng có ý nói tới nhiều việc khác nhau cho các dân tộc khác nhau. Đối với dân nầy, nó có nghĩa là hát lên với điệu cappella; với các dân khác nó có nghĩa là hát lên cách từ từ, dịu dàng; với các dân khác nữa nó có nghĩa là hát lớn tiếng, có lẽ thêm vỗ tay vào nữa. Sách Thi thiên không chứa bất kỳ loại nhạc nào được quy định để chúng ta có thể đặt lời lẽ đầy cảm hứng nầy vào âm nhạc theo một phương thức thích hợp với mạng văn hóa riêng của chúng ta. Tất nhiên, điều nầy nằm trong các phép tắc có giới hạn, nhưng có một sự tự do rất lớn ở đây.
(3) Sách Thi thiên là biểu hiện của sự thờ phượng. Thi thiên là biểu hiện phản ứng của con người đối với Đức Chúa Trời theo ánh sáng mọi hoàn cảnh của mình. Phạm vi mọi hoàn cảnh thôi thúc là rất rộng trong sách Thi thiên. Với đôi lời lưu ý, Ron Allen đã chia Kinh thánh thành ba phạm trù chính: khải thị, suy gẫm và đáp ứng. Thí dụ, khải thị bao gồm những truyện tích trong Kinh thánh. Suy gẫm bao gồm một số sách dạy về sự khôn ngoan, tỉ như sách Châm ngôn. Đáp ứng sẽ được biểu hiện trong sách Thi thiên.
Thường thì các Thi thiên là phần đáp ứng công khai của một người đối với Đức Chúa Trời như một kết quả tự nhiên của việc gặp gỡ riêng tư với Đức Chúa Trời. Chúng ta nhìn thấy tác giả Thi thiên tỏ ra sự thờ phượng của họ đối với Đức Chúa Trời như sự ứng nghiệm lời thề của họ phải ngợi khen Đức Chúa Trời cách công khai vì sự can thiệp của Ngài trong đời sống khi đáp trả mọi lời cầu xin của họ:
“Tôi sẽ trả xong cho Đức Giê-hô-va các sự tôi hứa nguyện, tại trước mặt cả dân sự Ngài” (Thi thiên 116:14).
“Sự ngợi khen của tôi tại giữa hội lớn do Chúa mà ra; Tôi sẽ trả xong sự hứa nguyện tôi trước mặt những kẻ kính sợ Chúa” (
Thi thiên 22:25; cũng xem 66:13-16)
Tác giả Thi thiên thường thúc giục đồng bào Do thái của mình hiệp cùng ông trong sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Ở Rôma 12:15, chúng ta được khuyên phải: “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc”.
Tác giả Thi thiên hiển nhiên làm cho việc nầy được thuận tiện hơn. Chúng ta có khả năng không những bước vào kinh nghiệm của tác giả Thi thiên, mà còn bước vào nhưng tư tưởng sâu kín của họ, đặc biệt các tư tưởng của họ về Đức Chúa Trời:
“Đức Chúa Trời ôi! linh hồn tôi mơ ước Chúa, Như con nai cái thèm khát khe nước. Linh hồn tôi khát khao Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống: Tôi sẽ đến ra mắt Đức Chúa Trời chừng nào? Đang khi người ta hằng hỏi tôi: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm. Xưa tôi đi cùng đoàn chúng, Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời, Có tiếng reo mừng và khen ngợi. Một đoàn đông giữ lễ; Rày tôi nhớ lại điều ấy, và lòng buồn thảm. Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? Hãy trông cậy nơi Đức Chúa Trời; ta sẽ còn ngợi khen Ngài nữa; Vì nhờ mặt Ngài, bèn được cứu rỗi. Đức Chúa Trời tôi ôi! linh hồn tôi bị sờn ngã trong mình tôi; Nên từ xứ Giô-đanh, Từ núi Hẹt-môn, và từ gò Mít-sê-a, tôi nhớ đến Chúa. Vực gọi vực theo tiếng ào ào của thác nước Chúa; Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi. Dầu vậy, ban ngày Đức Giê-hô-va sẽ sai khiến sự nhân từ Ngài; Còn ban đêm bài hát Ngài ở cùng tôi, Tức là bài cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời của mạng sống tôi. Tôi sẽ thưa cùng Đức Chúa Trời, là hòn đá tôi, rằng: Cớ sao Chúa quên tôi? Nhân sao tôi phải buồn thảm Vì cớ kẻ thù nghịch hà hiếp tôi?” (Thi thiên 42:1-9)
(4) Các Thi thiên là những lời cầu nguyện:
“Chung các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai” (Thi thiên 72:20).
Ở một thời điểm, cần phải chú ý đến lời “cầu nguyện của Giabe”.
Giabe kêu cầu cùng Đức Chúa Trời của Israel: Chớ chi Chúa ban phước cho tôi, mở bờ cõi tôi rộng lớn; nguyện tay Chúa phù giúp tôi, giữ tôi được khỏi sự dữ, hầu cho tôi chẳng buồn rầu! Đức Chúa Trời bèn ban cho y như sự người cầu nguyện” (I Sử ký 4:10).
Tôi không gắng sức để chê trách những người nào bắt chước theo lời “cầu nguyện của Gia be” nầy, song tôi muốn chỉ ra rằng các Thi thiên đều là những lời cầu nguyện đặc biệt được ghi ra cho sự lặp đi lặp lại. Tôi không hoàn toàn nhất định về lời cầu nguyện của Giabe. Thực vậy, đối với tôi dường như phần lớn các Thi thiên đều là lời cầu nguyện của nhiều người, họ đã thấy mình ở trong những hoàn cảnh khó khăn. Chúng thường là những lời cầu nguyện xin sự giải cứu ra khỏi nguy hiểm và sự chết, chớ không phải những lời cầu nguyện xin được thịnh vượng đâu. Tôi có khuynh hướng nói rằng lời cầu nguyện của Giabe là hạn hẹp trong mục tiêu của nó (chỉ nhắm vào Giabe và cuộc sống an lành của người mà thôi), trong khi các Thi thiên tập trung vào Đức Chúa Trời, và chúng nhất định “tán rộng” trong các giới hạn nội dung của chúng.
(5) Các Thi thiên đều có sự dạy dỗ. Các Thi thiên là một sự tóm tắt, một sự cô đọng, về thần học Cựu Ước. Các Thi thiên rất phong phú trong nội dung của chúng một khi chúng quan tâm đến vấn đề giáo lý. Chúng ta thấy các thuộc tánh của Đức Chúa Trời là một lẽ đạo thường xuyên trong các Thi thiên. Chúng ta thấy luật pháp tác động rất dễ bộc lộ trong các Thi thiên. Các Thi thiên cũng tóm tắt lịch sử những lần xử lý của Đức Chúa Trời với con người trong Cựu Ước (xem Thi thiên 78, 105). Các Thi thiên có chứa lời tiên tri, như chúng ta sẽ chỉ ra trong bài học kế tiếp. Các Thi thiên tạo điều kiện dễ dàng cho việc học hỏi Lời Đức Chúa Trời và học thuộc lòng Lời ấy. Thí dụ, thi thiên 119, được sắp đặt theo mẫu tự. Từng mảng trong Thi thiên bắt đầu với mẫu tự kế tiếp. Các Thi thiên rất phong phú trong sự dạy dỗ. Cái thấy rõ ràng nhất mà chúng ta được cung ứng cho là về luật pháp Cựu Ước:
“Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy. Các điều răn Chúa làm cho tôi khôn ngoan hơn kẻ thù nghịch tôi, vì các điều răn ấy ở cùng tôi luôn luôn. Tôi có trí hiểu hơn hết thảy kẻ dạy tôi, vì tôi suy gẫm các chứng cớ Chúa. Tôi thông hiểu hơn kẻ già cả, vì có gìn giữ các giềng mối Chúa. Tôi giữ chân tôi khỏi mọi đường tà, để gìn giữ lời của Chúa. Tôi không xây bỏ mạng lịnh Chúa; Vì Chúa đã dạy dỗ tôi. Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi! Nhờ giềng mối Chúa tôi được sự thông sáng; Vì vậy, tôi ghét mọi đường giả dối” (Thi thiên 119:97-104).
(6) Các Thi thiên nói thay cho chúng ta. Chúng ta biết rằng các Thi thiên nói với chúng ta, nhưng chúng cũng nói thay cho chúng ta nữa. Các Thi thiên có thể biểu hiện cho tấm lòng và tư tưởng của chúng ta tốt hơn lời lẽ chúng ta có thể biểu hiện. Ở vài trường hợp, người ta hỏi tôi không biết Rôma 8:26-27 có phải là phân đoạn minh chứng cho việc nói tiếng lạ hay không:
“Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ vậy” (Rôma 8:26-27).
Không cần phải tìm cách lao mình vào một cuộc tranh cãi về ân tứ nói tiếng lạ, tôi muốn nói rằng dù một tín hữu nào có ân tứ nầy đang hiện hữu hôm nay hay không, tôi không nghĩ Rôma 8:26-27 đang đề cập tới ân tứ nói tiếng lạ. Phân đoạn Kinh thánh nầy nói cho chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh vùa giúp chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời, đặc biệt khi chúng ta dường như không thể tìm được lời lẽ để bày tỏ ra nổi lòng của chúng ta với Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng truyền đạt từ Đức Chúa Trời cho chúng ta những việc mà lý trí tự nhiên của chúng ta không sao hiểu được:
“Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự dồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng. Nhưng người có tánh thiêng liêng xử đoán mọi sự, và chính mình không bị ai xử đoán. Vì ai đã biết ý Chúa, đặng dạy dỗ Ngài? Nhưng phần chúng ta, thì có ý của Đấng Christ” (I Côrinhtô 2:14-16).
Sự truyền đạt nầy từ Đức Chúa Trời không phải bởi phương tiện ân tứ tiếng lạ đâu. Thực vậy, không có sự thông giải, thậm chí chúng ta còn không biết điều chi đã được nói ra bằng tiếng lạ (xem I Côrinhtô 14:6-19). Hơn nữa, Kinh thánh nói rõ ràng rằng ân tứ tiếng lạ chỉ được ban ra cho một vài người, nhưng không phải ban ra cho tất cả các thánh đồ, giống như các ân tứ khác (I Côrinhtô 12:29-30). Nếu ân tứ tiếng lạ là phương tiện bởi đó chúng ta có khả năng truyền đạt mọi suy tưởng không thể bày tỏ ra với Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện, thế thì không phải các thánh đồ đều có khả năng ấy, vì không phải mọi thánh đồ đều nói tiếng lạ.
Mục đích của tôi ở đây, ấy là vấn đề được nói ra trong Rôma 8:26-27 phải là một điều khoản chung cho tất cả các thánh đồ, chớ không chỉ cho một số người. Các Thi thiên là một phương tiện bởi đó Thánh Linh của Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta phát ra rõ ràng những suy tưởng và than van của tấm lòng chúng ta. Tấm lòng làm cho chúng ta phải bối rối, song chúng ta dường như không thể chỉ ngón tay vào những gì thực sự gây rối rắm cho chúng ta. Khi ấy, chúng ta quay sang các Thi thiên và tìm được một Thi thiên thích ứng đặc biệt mô tả sự vất vả của riêng chúng ta. Tôi không cho rằng các Thi thiên là điều khoản “chung” duy nhứt mà Thánh Linh của Đức Chúa Trời đặt để cho sự sử dụng của chúng ta, nhưng tôi nghĩ các Thi thiên là một trong những điều khoản của Đức Thánh Linh vùa giúp chúng ta bày tỏ ra những cảm xúc sâu sắc của nổi lòng mình.
Chính Athanasius, một lãnh đạo Hội thánh lỗi lạc trong thế kỷ thứ tư, ông công bố “rằng các Thi thiên đều có một vị trí đặc biệt trong Kinh thánh vì hầu hết Kinh thánh đều phán cùng chúng ta, trong khi các Thi thiên nói thay cho chúng ta”.
Martin Luther thấy các Thi thiên là một ngôi trường cầu nguyện:
“Cơ đốc nhân có thể học cầu nguyện theo tác giả Thi thiên, vì ở đây người có thể nghe thể nào các thánh đồ trò chuyện với Đức Chúa Trời. Nhiều lời cầu xin đã được ghi ra ở đây, sướng và khổ, mong mỏi và quan tâm, đều khả thi cho từng Cơ đốc nhân nào tìm thấy chính mình trong đó, và hãy cầu nguyện với các Thi thiên”.
Một cái nhìn vắn tắt vào Thi thiên 73
Tôi đã chọn Thi thiên 73 để chứng minh cách thức các Thi thiên dạy dỗ thần học trong đó. Thi thiên 73 nói tới nan đề điều ác, giống như Thi thiên 37 và các Thi thiên khác vậy. Thi thiên 73 là một trong các Thi thiên kết thúc với một âm hưởng sung sướng. Không phải mỗi Thi thiên đều kết thúc theo cách nầy. Trong một số Thi thiên, tác giả Thi thiên kêu la với Đức Chúa Trời cầu xin sự giải cứu hay sự can thiệp thiêng liêng vì Đức Chúa Trời đã không hành động chi hết. Trong các trường hợp như thế, tác giả Thi thiên chỉ phó mình nơi Đức Chúa Trời của Kinh thánh và tin cậy nơi Ngài bất chấp mọi cảnh ngộ của mình, chiếu theo bổn tánh, những lời hứa giao ước, và mọi hành động của Ngài trong quá khứ (xem, thí dụ, các Thi thiên 6, 13, 34, 44, 74, 79, 80, 89, 94). Tuy nhiên, trong Thi thiên 73, tác giả Thi thiên đạt tới cách giải quyết cho nan đề của mình, là điều ông tỏ ra trong Thi thiên của ông. Chúng ta hãy xem xét cách vắn tắt nan đề của tác giả Thi thiên, giải pháp mà ông đạt tới, và phản ứng của ông đối với Đức Chúa Trời.
Tác giả của Thi thiên nầy là Asáp, tác giả của 12 trong số các Thi thiên. Asáp là “chánh trong sự thờ phượng”, ông đã phục vụ trước hòm giao ước của Đức Giêhôva (I Sử ký 16:4-5). Tôi có thể hình dung được phần nhiều sự thống khổ của ông đã đến từ việc nhìn vào những kẻ đến thờ phượng, với sự nhận biết một số người đã sống rất giả hình. Tình trạng chẳng đặng đừng của Asáp dựa theo lời hứa cơ bản nầy, mà mỗi người Do thái đều tin theo:
“Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành, tức là những người có lòng trong sạch” (Thi thiên 73:1)
Giao ước với Môise bảo đảm với dân sự của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ chúc phước cho người nào sống công nghĩa và Ngài sẽ sửa phạt kẻ ác. Khi Asáp để ý thấy có nhiều người trong chỗ ông thi hành chức vụ, lời hứa nầy dường như chưa xảy ra. Thực vậy, dường như là chỉ có điều ngược lại đang xảy ra mà thôi – trông như là Đức Chúa Trời đã chúc phước cho kẻ ác, hay tệ hại hơn, kẻ ác đang thịnh vượng và Đức Chúa Trời dường như không biết tới hay chẳng quan tâm đến!
“Còn về phần tôi, chân tôi đã gần vấp, xuýt chút bước tôi phải trợt. Vì khi tôi thấy sự hưng thạnh của kẻ ác, thì có lòng ganh ghét kẻ kiêu ngạo. Vì trong cơn chết chúng nó chẳng bị đau đớn; Sức lực của chúng nó vẫn đầy đủ. Chúng nó chẳng bị nạn khổ như người khác, cũng không bị tai họa như người đời. Bởi cớ ấy sự kiêu ngạo làm cây kiền cho cổ chúng nó; Sự hung bạo bao phủ chúng nó như cái áo. Mắt chúng nó lộ ra trong mỡ; Tư tưởng lòng chúng nó tuôn tràn ra. Chúng nó nhạo báng, nói về sự hà hiếp cách hung ác: Chúng nó nói cách cao kỳ. Miệng thì nói hành thiên thượng, còn lưỡi lại phao vu thế gian. Vì cớ ấy dân sự Ngài xây về hướng đó, và chúng nó uống nước cạn chén. Chúng nó rằng: Làm sao Đức Chúa Trời biết được? Há có sự tri thức nơi Đấng Chí cao sao? Kìa là những kẻ ác, Chúng nó bình an vô sự luôn luôn, nên của cải chúng nó thêm lên” (Thi thiên 73:2-12).
Asáp nói rõ rằng ông đã phạm tội bằng cách nghi ngờ sự nhơn từ và bằng cách ghen tỵ với kẻ ác kèm theo với sự giàu có của họ. Nội dung của toàn bộ Thi thiên sẽ cho chúng ta thấy rõ ràng rằng nhận thức của Asáp không chính xác lắm. Không phải ai thịnh vượng cũng là gian ác cả đâu, cũng không phải tất cả người công bình đều nghèo khó và bị lấn lướt. Sự thực cho thấy rằng kẻ ác không hoàn toàn tránh khỏi đau khổ. Asáp đã nhìn thấy một vài người sống gian ác, họ cũng rất giàu có, và dường như họ tránh được đau khổ. Cái điều làm cho vấn đề ra tệ hại hơn, ấy là chính những kẻ ấy sống rất kiêu căng về tội lỗi của họ, khoe khoang về nó (câu 8). Dường như họ làm và nói giống như họ chính là Đức Chúa Trời vậy. Họ sống kiêu ngạo đến nỗi thậm chí họ đã nói nghịch cùng Đức Chúa Trời (câu 9). Họ dám nghĩ và nói rằng Đức Chúa Trời phải biết rõ hay quan tâm đến cách họ đã hành xử (các câu 10-11). Để tóm lược lại, giống như Asáp đã nhìn vào kẻ ác, ông đã ghen tỵ với sự giàu có của họ, và ông bắt đầu hồ nghi lời hứa cơ bản rằng Đức Chúa Trời ban thưởng cho người công bình và sửa phạt kẻ ác. Gần như ông chối bỏ một trong những điều cơ bản của đức tin Do thái:
“Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hêbơrơ 11:6).
Asáp xưng nhận thể nào ông đã đến gần với việc “ném mình vào tháp ngà” rồi chịu thua:
“Tôi đã làm cho lòng tôi tinh sạch, và rửa tay tôi trong sự vô tội, việc ấy thật lấy làm luống công, Vì hằng ngày tôi phải gian nan, mỗi buổi mai tôi bị sửa phạt” (Thi thiên 73:13-14).
Có điều chi tốt lành đã được làm ra cách công bình cho ông, Asáp thắc mắc như thế!?! Tất nhiên, điều nầy cho rằng ông thực sự sống công bình – một giả tưởng rất nguy hiểm:
“Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi” (Êsai 64:6).
Asáp thành thực xưng ra tội lỗi mình và mối nguy hiểm mà sự ấy gắn cho chính mình ông cùng nhiều người khác:
“Nếu tôi có nói rằng: Ta sẽ nói như vậy; Ắt tôi đã phạm bất trung cùng dòng dõi con cái Chúa” (Thi thiên 73:15).
“Khi lòng tôi chua xót, và dạ tôi xôn xao, thì bấy giờ tôi ở ngu muội, chẳng hiểu biết gì; Trước mặt Chúa tôi ở khác nào một thú vật vậy” (
Thi thiên 73:21-22).
Giải pháp cho tình thế của Asáp đã đến khi ông đi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời và có thể nhìn thấy kẻ ác từ nhận thức thiêng liêng và đời đời:
“Khi tôi suy gẫm để hiểu biết điều ấy, bèn thấy là việc cực nhọc quá cho tôi, cho đến khi tôi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời, Suy lượng về sự cuối cùng của chúng nó. Chúa thật đặt chúng nó tại nơi trơn trợt, khiến cho chúng nó hư nát. Ủa kìa, chúng nó bị hủy diệt trong một lát! Chúng nó vì kinh khiếp mà phải tiêu hao hết trọi. Hỡi Chúa, người ta khinh dể chiêm bao khi tỉnh thức thể nào, Chúa khi tỉnh thức cũng sẽ khinh dể hình dạng chúng nó thể ấy” (Thi thiên 73:16-20).
Tôi nhớ có lần anh tôi và tôi đi đánh bắt cá hồi trên một chiếc thuyền ở bờ biển Oregon. Việc đánh bắt không được mỹ mãn lắm trong ngày đặc biệt đó (thường là như vậy với tôi và việc đánh bắt cá). Nhưng có một thành viên trên thuyền, ông ta cứ ngồi ì với quyển tạp chí bẩn thỉu kia khi ông ta ngồi đợi cá cắn câu, và chúng đã cắn câu – ít nhất là cho ông ta. Tôi đã nói ra một việc với anh tôi về sự bất công của sự việc nầy (chắc chắn Đức Chúa Trời đã lèo lái một con cá hồi đến với cần câu của tôi), và anh ấy đã đáp rất khôn khéo: “Đây là mọi sự khoái lạc mà ông nầy đã có; chúng ta được đưa lên trời để nhìn xuống mới phải”. Tất nhiên là anh ấy đã nói đúng. Đấy là điều mà Asáp cũng đã đạt tới, khi ông giờ đây nhìn vào sự thịnh vượng của kẻ ác từ một nhận định đời đời.
Asáp giờ đây nhìn vào chính những con người nầy, nhưng từ một nhận thức thiêng liêng. Ông nhìn thấy không những sự giàu có hiện tại của họ, mà còn nhìn thấy số phận đời đời của họ nữa. Có phải kẻ ác đang thịnh vượng không? Nếu thực vậy, sự thịnh vượng của họ chỉ trong một lúc mà thôi. Nhưng bất chấp sự kiêu căng và sự an ninh hiện tại của họ, tương lai của họ không bảo đảm lắm đâu. Đức Chúa Trời một ngày kia sẽ giáng xuống kẻ ác, và họ sẽ trả giá cho tội lỗi của họ. Sự giàu có của họ đột nhiên sẽ tan tác giống như giấc chiêm bao vậy. Khi Đức Chúa Trời “tỉnh thức”, Ngài sẽ xử lý với họ tùy theo tội lỗi của họ.
Asáp giờ đây nhận định mọi cảnh ngộ của mình từ một nhận thức thiêng liêng:
“Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa? Còn dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa. Thịt và lòng tôi bị tiêu hao; Nhưng Đức Chúa Trời là sức lực của lòng tôi, và là phần tôi đến đời đời” (Thi thiên 73:25-26).
Trong sự thịnh vượng của họ, kẻ ác đã ăn nói kiêu căng nghịch cùng Đức Chúa Trời (xem các câu 8-12). Sự thịnh vượng đã không kéo họ đến gần Đức Chúa Trời hơn. Mặt khác, Asáp giờ đây kỉnh kiền nhận thức được tình trạng được phước của sự mật thiết với Đức Chúa Trời. Trong khi đời sống của ông có thể không được đánh dấu bởi sự sung túc và an nhàn, ông nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đang ở với ông. “Tình trạng nghèo khó” của ông (ít nhất khi đem sánh với kẻ giàu có gian ác) đã kéo ông đến gần Đức Chúa Trời hơn. Và cuộc sống đời nầy của ông với Đức Chúa Trời cũng vậy, nó luôn tốt hơn với đời sống của kẻ ác. Và trên hết mọi sự, mối quan hệ đời nầy của ông với Đức Chúa Trời mới chỉ là phần khởi đầu. Ông được bảo đảm về mối tương giao đời đời với Đức Chúa Trời trong sự hiện diện của Ngài.
Nếu Asáp cần phải kết luận rằng kẻ ác đang “có cuộc sống tốt nhứt” trong lúc bây giờ, nhưng rồi hắn sẽ “có cuộc sống tốt nhứt” trong cõi đời đời, ông sẽ rơi vào chỗ sai lầm. Asáp đang có cuộc sống tốt nhứt, ngay bây giờ và cho đến đời đời. Asáp giờ đây đã đạt tới một xác định rất khác biệt về điều tốt đẹp:
“Nhưng lấy làm tốt thay cho tôi đến gần Đức Chúa Trời; Tôi nhờ Chúa Giê-hô-va làm nơi nương náu mình, đặng thuật lại hết thảy các công việc Ngài” (Thi thiên 73:28).
Asáp đã bắt đầu với câu nói: “Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành” (73:1a). Đối với Asáp, như với bao người khác, câu nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước về mặt vật chất cho những ai có động lực của họ trong sạch. Asáp giờ đây nhìn xem mọi sự rất khác biệt. Ông nhận ra rằng mọi động lực của ông là không thanh sạch (xem 73:15, 21-22). Ông không xứng đáng với mọi ơn phước của Đức Chúa Trời. Và hơn nữa, sự nhơn từ của Đức Chúa Trời không sao đánh giá được bằng những đồng đôla, song bằng sự đến gần với Đức Chúa Trời kìa.
Có bao nhiêu người trong chúng ta đang phạm tội cứ suy nghĩ theo những giới hạn sai sót không đúng như thế? Khi chúng ta nghĩ đến thiên đàng, chúng ta thường nghĩ đến những con đường lót vàng, hay sẽ chẳng còn có nước mắt nữa, không còn có buồn thảm nữa, chẳng còn có sự chết nữa. Trong khi điều nầy là sự thực, ơn phước lớn lao nhất của thiên đàng, đây là nơi Đức Chúa Trời đang ngự trị. Thiên đàng được phước vì ở đó chúng ta có thể tận hưởng sự mật thiết không gì ngăn trở được với Đức Chúa Trời trong mọi sự đời đời. Những đau khổ của chúng ta là phương tiện giúp thả lỏng cái nắm bắt của chúng ta về đời nầy cùng những thứ vật chất của nó rồi nâng cao sự khát khao của chúng ta về thiên đàng:
“Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn. Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (II Côrinhtô 4:16-18).
Nhiều sách báo đã được viết ra về nan đề đau đớn và sự khổ ải của con người. Thi thiên nầy cho rằng cần phải có nhiều nổ lực cao quý để giải quyết vấn đề đau khổ của con người. Đây là một phương pháp chưng cất chân lý của Kinh thánh. Nó sửa chữa một số quan niệm sai lầm rất thông thường về Cơ đốc nhân và sự chịu khổ (và sự thịnh vượng). Nó làm thế chỉ với một vài từ ngữ. Đúng là một kho báu kỳ diệu của lẽ thật cần phải được tìm gặp trong sách Thi thiên. Không lạ gì khi các Thi thiên đóng một vai quan trọng trong các Hội thánh Tân Ước:
“Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa” (Êphêsô 5:18-19).
“Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời” (
Côlôse 3:16).
Nếu tôi ý thức có thiếu sót nào trong đời sống Cơ đốc của chính tôi, một trong số nầy nằm trong lãnh vực thờ phượng. Các Thi thiên là mỏ vàng tư liệu cho sự thờ phượng. Chúng cung ứng không những nội dung mà còn công thức cho sự ngợi khen và sự thờ phượng nữa – riêng và chung. Các Thi thiên giúp tôi biết ngợi khen Đức Chúa Trời trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Các Thi thiên tỏ ra một sự trung thực, cởi mở, và minh bạch trong sự thờ phượng nào thường thiếu sót nơi sự thờ phượng của tôi. Đối với tôi, có lẽ quan trọng nhất, các Thi thiên giúp tôi kinh nghiệm nhiều hơn một Cơ đốc giáo theo nghi lễ – một loại đức tin theo trí khôn. Các Thi thiên đột nhập vào tấm lòng và mọi tình cảm của tôi, cũng như trong lý trí của tôi vậy.
Các Thi thiên cũng có tính cách dạy dỗ khi tôi tham gia công khai vào sự thờ phượng chung của nhà thờ. Trong nhà thờ của chúng ta, chúng ta có buổi nhóm lại công khai, ở đó nhiều người công khai hướng dẫn vào sự thờ phượng và ở đó chúng ta tham dự Tiệc Thánh của Chúa hàng tuần. Nếu sự dự phần của tôi trong buổi nhóm nầy được dẫn dắt bởi các Thi thiên, khi ấy chính kinh nghiệm và sự gặp gỡ của tôi với Đức Chúa Trời trong cả tuần lễ sẽ cung ứng những vật liệu thô cho sự dự phần của tôi vào ngày Chúa nhật. Việc ấy hoàn toàn chẳng quan trọng ở chỗ sự dự phần của tôi khởi sự cũng như chỗ nó kết thúc. Phần nhiều các Thi thiên đều được sản sinh ra trong những tình huống khiêm hạ, tỉ như sự điên dại của David ở trước mặt Abimêléc (Thi thiên 34:1). Tuy nhiên, thi thiên của David nhắm vào sự oai nghi của lòng thương xót và ơn giải cứu của Đức Chúa Trời. Một vài người trong nhà thờ của chúng ta đã đến gần với sự chết, và có người đã qua đời để đi ở với Chúa. Lời lẽ của họ về sự thờ phượng đã giục giã chúng ta kéo đến gần Đức Chúa Trời và để cùng với họ ngợi khen Đức Chúa Trời. Các Thi thiên không nói về chúng ta, mà nói về Đức Chúa Trời. Chúng khởi sự với kinh nghiệm của chúng ta, nhưng chúng chú trọng vào Đức Chúa Trời, và chúng là một biểu hiện của sự thờ phượng.
Các Thi thiên nhắc cho chúng ta nhớ rằng chúng ta phải nên sửa soạn cho cuộc thờ phượng. Các Thi thiên không phải là sự biểu hiện tự phát của sự thờ phượng, mà cẩn thận suy nghĩ và là những lời ca ngợi và cầu xin đã được hình thành thật xinh đẹp. Các Thi thiên đã dè chừng chúng ta không nên cẩu thả trong sự thờ phượng của mình và về việc đến với nhà thờ mà chưa sửa soạn để hướng dẫn người khác bước vào sự thờ phượng. Trong khi một số nhà thờ có các cấp lãnh đạo của họ trong sự thờ phượng, dường như đối với tôi là mỗi người nào hướng dẫn trong sự thờ phượng phải thể hiện phần việc của mình trong vai trò một người hướng dẫn thờ phượng, kêu gọi sự chú ý của dân sự vào Đức Chúa Trời, và để thách thức, tạo cảm hứng cho họ lo thờ lạy Ngài.
Nguyện Đức Chúa Trời sử dụng các Thi thiên để làm cho đời sống và sự thờ phượng của chúng ta được phong phú thêm, và nguyện Ngài ưng ban cho chúng ta những Thi thiên mới trong sự thờ phượng khi chúng ta tiếp tục thờ lạy Đức Chúa Trời qua thơ văn và bài hát. Tôi kết thúc với một bài thơ được viết ra bởi Lớp 4 Trường Chúa Nhật trong nhà thờ của chúng ta khi đáp ứng lại với sự nghiên cứu sách Thi thiên của họ:
Bài Thơ Lớp 4 Trường Chúa Nhật
Tôi được dạy dỗ và tôi tin

Chúa Jêsus là Đấng chết thay cho tôi

Ngài là Đấng mà chúng ta chiến đấu cho?

Vua các vua và Chúa các chúa

Ngài là Đấng ban cho chúng ta ân điển?

Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài là Đấng ban ơn cứu.

Một ngày kia, Ngài sẽ tái lâm

Đem con cái Ngài về quê hương với Ngài

Hãy ca ngợi Ngài

Một-hai

Ba-bốn.

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Sự trị vì của Salômôn

Từ Sự Sáng Tạo Đến Thập Tự Giá

Sự trị vì của Salômôn
Mục sư: Bob Deffinbaugh
I Các Vua 1-11
Phần giới thiệu
Cuộc bầu cử tổng thống vừa qua khiến chúng ta cứ bực bội luôn trong mấy tuần lễ liền. Tôi đã xem cuộc bầu cử với mấy người bạn tưởng chừng như Al Gore đã giành chiến thắng vậy. Một vài giờ sau đó thì tin tức cho hay rằng George Bush là người chiến thắng, và Al Gore thậm chí đã thừa nhận như thế. Sau đó, số phiếu đếm gần gũi đến nỗi ông Gore đảo ngược sự nhượng bộ của mình và cuộc đua dường như là một sự lôi kéo vậy. Sau khi kiểm đi kiểm lại số phiếu bầu (cùng với một quyết định của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ), George Bush được tuyên bố là người chiến thắng. Đây là những khoảnh khắc bất ổn đối với nhiều người.
Tình huống giống như thế này cách đây gần 3.000 năm, khi David là vua của Israel. Sức khỏe và sức sống của ông đã giảm dần hàng ngày, và chỉ còn là vấn đề thời gian cho đến khi ông qua đời mà thôi. Giả định rằng một trong những con trai của David sẽ trở thành vua kế vị, nhưng không ai biết chắc người con nào sẽ là vua kế vị ấy. David đã nói riêng với bà Bátsêba rằng Salômôn sẽ trị vì trong chỗ của ông, song ông chưa công khai đặt Salômôn làm người thay thế mình. Thất bại của David không thoái vị và không hành động dứt khoát trong việc đặt Salômôn lên ngai vàng đã tạo ra một khoảng trống về chức năng lãnh đạo nên nỗi Ađônigia, một trong những người con trai khác của David, đã cố gắng điền vào. Ađônigia đã cai quản thuyết phục một số lãnh đạo chủ chốt của Israel cung ứng sự hỗ trợ của họ cho mình, và việc cử hành "chiến thắng" của chàng ta đã được tiến hành.
Đây là những giây phút căng thẳng cho dân tộc Israel, và thậm chí rất nhiều đối với bà Bátsêba, mẹ của Salômôn, và cho những ai vẫn giữ lòng trung thành với David. Nếu Ađônigia đã thành công trong mọi nỗ lực của mình hòng chiếm lấy ngai vàng, gần như chắc chắn chàng sẽ giết tất cả các hậu duệ của David, người nào có thể là một đối thủ cho ngai vàng. Hai chương đầu tiên của I Các Vua nhơn đó đầy hồi hộp và những âm mưu, khi Salômôn sau cùng đã chiếm ưu thế và đảm bảo địa vị của mình là vua của Israel.
Trong nhiều phương thức, câu chuyện của Salômôn là một câu chuyện thành công tuyệt vời. Ông là người khôn ngoan nhất từng sinh sống. Sự giàu có và quyền lực của ông đã được tất cả những người sinh sống ở Israel và hầu hết những người sống ngoài biên giới của Israel đều biết đến. Salômôn là một nhà văn sáng tác, sáng tác 1.005 bài ca và 3.000 câu châm ngôn. Mặc dù đã sáng tác nhiều như thế, đời sống của Salômôn đã kết thúc như một thảm họa. Những người vợ ngoại bang của ông đã thành công trong việc xây tấm lòng ông ra khỏi Đức Giêhôva, với cái giá con trai của Salômôn phải trả bằng cả vương quốc của mình và Israel bị chia làm hai trong nhiều thế kỷ hầu đến. Các bài học chúng ta tiếp thu từ Salômôn đều là những bài học rất tiêu cực – làm sao đừng để phạm sai lầm giống như Salômôn đã phạm.
Những điểm tương đồng giữa thời buổi Salômôn sống trong đó và thời buổi của chúng ta thì có rất nhiều, và chúng rất nổi bật. Chúng ta hãy lắng nghe cho kỹ lời lẽ của 11 chương đầu của Sách I Các Vua, và chúng ta hãy tiếp thu từ những sai lầm của Salômôn, bản thân chúng ta đừng lặp lại chúng.
Sự chuyển giao vững chãi: Từ David qua Salômôn

I Các Vua 1 & 2
Tôi bị cám dỗ phải đặt cho phần nầy tiêu đề: "Bên Kia Núi, Nhưng Không Chuyển Giao Ngọn Đuốc". Khi tôi đọc bốn câu đầu tiên của chương 1, tôi thấy một "David" rất khác so với người chiến binh dũng cảm đứng lên chống lại Gôliát trong I Samuên 17. Đây là một cụ già, ông đang ở gần cuối đời mình. Ông đang nằm trên giường run rẩy, gần như không biết gì về công việc hàng ngày trong vương quốc của mình. Ông có một thiếu nữ xinh đẹp ở gần ông, nàng đã phục vụ ông, song theo ý của tôi thì nàng được dự định phải làm nhiều việc hơn là điều dưỡng. Nàng là một cung phi, các sự kiện hiển nhiên sẽ minh chứng cho điều đó. Thực ra, David đã không "biết" nàng ấy, ý nói cho độc giả biết về tuổi tác và sức khỏe thuộc thể của David. Ông là một người không còn có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống mình nữa.
Không có cáo trạng nào ở đây, không một lời lên án, mặc dù David đã rơi vào chặng đường giảm sút của mình. Lỗi lầm nằm trong thất bại của David không bước sang một bên, và đặc biệt nhiều hơn nữa trong thất bại của ông không chỉ định ai sẽ nối tiếp ông làm vua của Israel. Con người này, quyền cai trị trước đó của ông đã bị thách thức (bởi Ápsalôm, và có lẽ nhiều người khác nữa), không sốt sắng rời đi, nhưng ông cũng không thực sự cai trị nữa.
Một số yếu tố dường như đã góp phần vào sự trả giá của Ađônigia để trở thành vị vua kế tiếp của Israel. (1) Dường như chàng là người con lớn nhất của David còn sống. (2) Chàng là một thanh niên rất đạp trai và hấp dẫn (I Các Vua 1:6). (3) Ađônigia có khả năng tập hợp một nhóm người ưu tú, họ từng là vệ sĩ của chàng (1:5). (4) Chàng là đứa con mà David thất bại không kỷ luật hay "chế ngự" được. Tôi tin rằng chàng không bao giờ nói: "Không" và do đó, chàng cứ đi theo con đường riêng của mình (1:6). Một đứa con không biết tôn trọng, và cũng không e sợ, cha của chàng sẽ có khuynh hướng tìm cách để gạt bỏ chàng. Nếu David thực sự hoạt động như là vua của Israel, Ađônigia sẽ không có được một cơ hội. (5) Ađônigia kiếm được sự ủng hộ của Giôáp, quan tổng binh của quân đội, và Abiatha, thầy tế lễ. (6) David đã không để ý tới những gì đang diễn ra và hầu như không cầm quyền như một vì vua. Có một khoảng trống về cấp lãnh lãnh đạo của Israel, và Ađônigia dường như có sự quyết tâm và có nhiều nguồn lực để điền vào khoảng trống ấy.
Nathan nhìn biết đỉnh điểm mà Ađônigia đã lên tới và ông cùng những người trung thành với David phải bị Ađônigia cẩn thận loại trừ. Nathan cảnh báo Bátsêba rằng nếu bà không sử dụng ảnh hưởng của mình với David, bà và con trai của bà sẽ sớm nằm trong tầm nguy hiểm nghiêm trọng. Với sự nhắc nhở của Nathan, Bátsêba đến gặp David và cho ông biết mọi chuyện đang xảy ra. Bà cũng nhắc cho nhà vua nhớ tới lời hứa của ông rằng Salômôn con trai bà, sẽ là vị vua kế tiếp của Israel. Bà thúc giục David phải làm một việc gì đó hoặc bà và con trai của bà sẽ trở thành kẻ thù của chính thể mà Ađônigia đã thể hiện qua cuộc nổi dậy của hắn ta.
"Thật trùng hợp", giờ đây Nathan đến tại hành lang của nhà vua. Sự việc cho thấy rằng Bátsêba rời khỏi sự hiện diện của nhà vua khi Nathan xuất hiện, hầu cho họ có thể nói chuyện riêng tư với nhau. Nathan nói với David cùng một câu chuyện ấy, rằng Ađônigia đang tìm cách chiếm lấy ngai vàng. Ông báo cho David biết rằng lễ kỷ niệm chiến thắng của hắn ta đã bắt đầu rồi. Nathan hỏi David, không biết mọi sự nầy có được sự chấp thuận của nhà vua hay không!?! David phản ứng bằng cách cho đòi Bátsêba đến một lần nữa. Khi ấy David triệu tập thầy tế lễ Xađốc, tiên tri Nathan, và Bênagia con trai của Giêhôgiađa (1:32). Ông ban ra những huấn thị rằng ngay lập tức họ phải tôn Salômôn lên làm vua của Israel theo yêu cầu của David.
Khi Ađônigia cùng những kẻ ủng hộ chàng đang kỷ niệm "chiến thắng" của mình, thầy tế lễ Xađốc đang xức dầu cho Salômôn lên làm vua Israel. Tiếng kèn vang dội và dân sự tuyên bố: "Vua Salômôn Vạn Tuế!" Đám dân đông đã lấy làm sợ hãi khi có Ađônigia là vua của họ, những tin tức đăng quang của Salômôn được đáp ứng với lễ lạc vui tươi. Âm thanh của lễ lạc này đến tận tai của những người đang ở với Ađônigia, song họ không biết tiếng kèn ấy có nghĩa gì!?! Giônathan, con trai của thầy tế lễ Abiatha (không lâu sau đó đã "nghỉ hưu"), báo cho họ rằng các âm thanh của lễ lạc ấy không phải là những tin tức tốt lành cho Ađônigia những kẻ ủng hộ chàng ta. Ông báo cho họ biết rằng David đã chỉ định Salômôn làm người kế vị mình và người đã lên ngôi rồi. Các thực khách của Ađônigia hoảng sợ khi họ nhận ra giờ đây họ trở thành kẻ thù của Salômôn. Họ rời khỏi đó thật nhanh, và Ađônigia bỏ chạy nắm lấy các sừng của bàn thờ. Salômôn chấp nhận lời nài nĩ của anh mình xin được thương xót rồi bảo người trở về nhà mình.
Việc chuyển đổi từ một vị vua nầy sang vị vua kế tiếp không luôn luôn là một sự chuyển đổi êm thấm đâu. Trong cuộc bầu cử tổng thống của chúng ta vừa qua, Bill Clinton đã dành những thì giờ còn lại của mình ở văn phòng để cấp giấy ân xá và ký các sắc lệnh về hành chánh. Phần lớn mọi sự đã được thực hiện trong những giờ cuối cùng đó nhằm vào vụ việc chính trị của đảng đương quyền. Tổng thống George W. Bush và chính phủ của ông sẽ dành nhiều thì giờ xem xét lại những hoạt động trong giờ phút cuối cùng nầy, và nhiều người trong số họ sẽ bị đảo lộn hoặc thay đổi. Đây là loại chuyển giao rất khác biệt hơn loại chuyển giao đã được mô tả trong I Các Vua 2. David cho đòi Salômôn đến và trao cho chàng một số lời khuyên rất tốt sẽ giúp cho chàng bắt đầu chính phủ mới của mình sao cho thật vững chãi. Cái điều rất thú vị trong lời khuyên của David, ấy là ông đã khích lệ Salômôn điều chỉnh lại những điều mà bản thân ông đã thất bại không làm được đang khi ông làm vua trên Israel.
Thứ nhứt, David thúc giục Salômôn dâng mình vào việc tuân giữ luật pháp của Đức Chúa Trời:
“Ta hầu đi con đường chung của cả thế gian, khá mạnh dạn và nên người trượng phu! Hãy giữ điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời muốn con giữ, để đi trong đường lối Ngài, gìn giữ những luật pháp, điều răn, mạng lịnh, và sự dạy dỗ của Ngài, y như đã chép trong luật pháp của Môi-se, hầu cho con làm điều chi hay là đi nơi nào cũng đều được thành công, và Đức Giê-hô-va sẽ làm ứng nghiệm lời Ngài đã phán về ta, rằng: Nhược bằng các con trai ngươi cẩn thận về đường lối mình, hết lòng, hết ý theo lẽ thật mà đi ở trước mặt ta, thì ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên” (
I Các Vua 2:2-4).

Thứ hai, David thúc giục Salômôn phải xử lý với Giôáp

“Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Ap-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa bình như trong cơn chiến trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến trận dính vào đai nó thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chân. Con hãy cứ sự khôn ngoan con mà cư xử, chớ để đầu bạc nó xuống âm phủ cách bình yên” (I Các Vua 2:5-6).

Đối với tôi thật là khó hiểu lý do tại sao David lại thúc giục Salômôn phải xử lý với Giôáp, đang khi bản thân ông không xử lý. David đã lên tiếng chống lại hành vi giết người của Giôáp, nhưng ông đã không hành động dứt khoát như ông đã có với người Amaléc kia (II Samuên 1:13-16) và với các tôi tớ của Íchbôsết (II Samuên 4:5-12). Một người sẽ lấy làm lạ nếu như David e sợ Giôáp, giống như các vị vua, Tổng thống e sợ người đứng đầu các lực lượng quân sự của họ. Rốt lại, David đã từng thay thế Giôáp, chỉ để cho ông ta trở lại nắm quyền bính trong một vài ngày (xem II Samuên 19:11-15; 20:4-23).

Thứ ba, David thúc giục Salômôn ban thưởng cho Bátxilai, một người vẫn giữ lòng trung thành với ông trong thời gian ông gặp hoạn nạn:

“Con hãy ở với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cách nhân từ cho họ ăn đồng bàn cùng con; vì chính chúng nó đã đãi cha như vậy, mà đến đón rước cha, lúc cha chạy trốn trước mặt Ap-sa-lôm, anh con” (I Các Vua 2:7).

Cũng như sự công bình cần được ban ra cho những người đã phạm tội, cũng một thể ấy, những người đã giữ lòng trung thành với David cần được con trai ông, là người kế vị ông ban thưởng.
Sau cùng, David thúc giục Salômôn xử lý với Simêi, một người từng là cái gai xóc trong da thịt của David:
“Nầy còn kẻ ở với con, là Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim, là kẻ lấy những lời độc ác mà nguyền rủa cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im; nhưng nó xuống đón cha tại Giô-đanh, thì cha đã nhân danh Đức Giê-hô-va mà thề với nó rằng: Ta sẽ chẳng giết ngươi bằng gươm. Bây giờ, con chớ để nó khỏi phạt, vì con là khôn ngoan, biết thế nào phải xử nó: con khá làm cho đầu bạc nó dính máu mà xuống âm phủ” (I Các Vua 2:8-9).

Có phải thái độ trả thù trong sạch nầy, hay có phải David tin rằng Simêi luôn luôn sẽ là một đối thủ với nhà David bởi vì hắn ta không phải là một hậu duệ của Saulơ (xem II Samuên 16:5-8)? Đấy có phải là một việc mỉa mai không, người đã tố cáo David là "kẻ làm đổ huyết" (II Samuên 16:7-8) giờ đây lại có một "cái chết đẫm máu" (I Các Vua Vua 2:9).
Phần còn lại của I Các Vua 2 mô tả thể nào Salômôn đã thực hiện mưu luận của David và qua đó củng cố vương quốc của mình. Ađônigia đã làm cho việc ấy tương đối ra dễ dàng cho Salômôn. Ađônigia thuyết phục Bátsêba với thỉnh cầu Abisác được ban cho chàng làm vợ. Abisác được xem là một trong những cung phi của David và, như vậy, khi ban nàng cho Ađônigia sẽ tương xứng với việc thừa nhận quyền làm vua của chàng ta trên Israel. Sở hữu cung phi của nhà vua là chiếm lấy địa vị của nhà vua. David đã nhìn thấy suốt kế hoạch của Ađônigia. Ông đã thương xót chàng ta một lần, nhưng giờ đây ông sai Bênagia đến hành quyết chàng ta. Ađônigia sẽ không gây rắc rối thêm cho vương quốc nữa.
Tiếp đến Salômôn xử lý với thầy tế lễ Abiatha, là người đã phản bội chàng bằng cách ủng hộ Ađônigia trong nỗ lực lên ngôi vua. David đã không hành quyết thầy tế lễ nầy, song ông đã đuổi ông ta về nhà mình. Salômôn chỉ định thầy tế lễ Xađốc trong vị trí của Abiatha (I Các Vua 2:35). Chúng ta được nhắc nhớ rằng điều này làm ứng nghiệm Lời của Chúa nghịch lại nhà Hêli (I Các Vua 2:27; xem I Samuên 2:27-36).
Khi lời đến với Giôáp cho biết rằng Salômôn đã xử lý với các kẻ thù của mình, ông chạy đến bàn thờ và nắm các sừng của nó, hy vọng được thương xót như Ađônigia đã nhận được trước đó từ Salômôn. Có lý do để hy vọng được thương xót, trừ những người phạm tội cố sát (xem Xuất Êdíptô Ký 21:12-14). Lần nầy, Giôáp đã không tránh được án phạt mà ông ta đáng phải chịu. Salômôn sai Bênagia, là người đã khiến Giôáp phải chết trước bàn thờ. Sau cùng , sự công bình đã được đáp ứng đối với hành vi giết người của Giôáp (I Các Vua 2:31-33).
Cuối cùng, Salômôn đã thực hiện mưu luận của David về Simêi, là người Bêngiamin đã ăn nói sai trái đối với David. Simêi mang lại cái chết cho chính mình. Salômôn lệnh cho Simêi tự xây một căn nhà ở thành Jerusalem, ở đó chàng sẽ coi chừng ông ta. Chàng hứa với Simêi rằng nếu ông ta rời khỏi thành Jerusalem, mạng sống của ông ta sẽ bị tước đi. Hai năm sau, hai trong số các tôi tớ của Simêi bỏ trốn, và Simêi truy đuổi chúng. Khi Salômôn hay được Simêi đã rời khỏi thành Jerusalem, chàng đã triệu ông ta đến, khiển trách ông ta vì vi phạm các điều khoản vua đã đặt ra. Sau đó, Salômôn dặn dò Bênagia phải hành quyết ông ta. Bằng cách này, vương quốc của Salômôn được thiết lập cách vững chắc, bởi vì những người chống đối ông đã được cất đi.

Ước ao của Salômôn được chấp nhận
I Các Vua 3-8
Thường thì trong truyện cổ tích hay truyện vui, hết thảy chúng ta đều nghe kể lại về ai đó mà ước muốn của họ được chấp nhận. Có ai đó đã từng nghĩ chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Trời ban cho một người bất cứ điều gì người ao ước, nhưng ở đây thì có đấy. Sự chấp nhận ước muốn của Salômôn được thấy có ngay sau mấy lời này:
“Sa-lô-môn kết thân với Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, cưới con gái người, rước nàng về thành Đa-vít, đợi xây cất xong cung điện riêng mình, đền của Đức Giê-hô-va, và tường thành chung quanh Giê-ru-sa-lem. Dân sự hãy còn dâng của lễ trên các nơi cao, vì cho đến bấy giờ chưa có xây cất đền nào cho danh Đức Giê-hô-va. Sa-lô-môn kính mến Đức Giê-hô-va, và đi theo các luật lệ của Đa-vít, cha mình; song người dâng của lễ và xông hương tại trên nơi cao” (I Các Vua 3:1-3).
Việc nhìn biết các cảnh báo trong Phục truyền luật lệ ký 17:16-17 và thể nào câu chuyện nói tới đời sống của Salômôn sẽ kết thúc, độc giả phải có một số lo ngại về hôn nhân của Salômôn với một công chúa người Ai Cập. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng không có ngăn cấm cụ thể nào chống lại việc kết hôn với một người Ai Cập. Chỉ có phụ nữ xứ Canaan mà người Do thái bị cấm kết hôn với thôi. Ápraham đã lấy Aga làm vợ lẽ trong Sáng Thế Ký 16; Giôsép cũng đã lấy một người vợ Ai Cập trong Sáng Thế Ký 41:45. Môise đã lấy một người Êthiôpi làm vợ, mặc dù các anh chị em của ông không thích điều đó (Dân số Ký 12:1-2).

Chúng ta dám nói rằng khi Salômôn lấy một công chúa Ai Cập làm vợ, ông đã bắt đầu di chuyển theo một hướng sai lầm. Trong khi tác giả của phân đoạn Kinh thánh của chúng ta bình luận Salômôn cho đã noi theo cách sống của David cha mình, ông đã kết tội Salômôn vì "dâng của lễ và xông hương tại trên nơi cao" (3:3). Nếu tôi hiểu chính xác những lời lẽ này, thì không phải Salômôn dâng của lễ cho các tà thần đâu, mà đúng hơn ông đang dâng của lễ cho Đức Chúa Trời ở những địa điểm không đúng.
“Nếu một người nam trong nhà Y-sơ-ra-ên giết một con bò, một con chiên con, hoặc một con dê trong trại quân hay là ngoài trại quân, chẳng đem đến cửa hội mạc đặng dâng cho Đức Giê-hô-va, trước đền tạm của Ngài, thì huyết sẽ đổ tội về người; người đã làm đổ huyết ra, nên sẽ bị truất khỏi dân sự mình. Ấy hầu cho dân Y-sơ-ra-ên lấy của lễ mình giết ngoài đồng, dẫn đến thầy tế lễ, trước mặt Đức Giê-hô-va, tại cửa hội mạc, đặng dâng lên làm của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va” (Lêvi ký 17:3-5).
“song nơi nào trong những chi phái các ngươi, mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi sẽ chọn, đặng đặt danh Ngài, tức là nơi ngự của Ngài, thì các ngươi phải tìm đi đến đó, đem dâng tại đó những của lễ thiêu, các hi sinh, thuế một phần mười, lễ vật dâng giơ lên, của lễ hoàn nguyện, của lễ lạc ý và các con đầu lòng của bầy bò và chiên; rồi các ngươi sẽ ăn tại đó, trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, vui vẻ cùng gia quyến mình, vì mọi việc tay mình làm đã được Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban phước cho…Bấy giờ, sẽ có một chỗ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi chọn, đặng cho danh Ngài ở; ấy là nơi các ngươi sẽ đem dâng mọi điều ta dặn các ngươi, tức là những của lễ thiêu, các hi sinh, thuế một phần mười, lễ vật dâng giơ lên, và mọi của lễ tốt nhất, mà các ngươi hứa nguyện dâng cho Đức Giê-hô-va” (
Phục truyền luật lệ ký 12:5-7, 11; cũng xem các câu 13-14).
Chính sau câu nói về tội lỗi của Salômôn (về việc dâng của lễ trên các nơi cao) mà Đức Chúa Trời phán cùng chàng. Salômôn đang ở tại Gabaôn, là "nơi cao", ở đó ông dự định dâng các thứ của lễ cho Đức Chúa Trời – chính cái điều được cho là sai ở trong câu 3. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã hiện ra với Salômôn trong một điềm chiêm bao:

“Vua đi đến Ga-ba-ôn đặng dâng của lễ tại đó, vì nơi cao ấy là trọng nhất; trên bàn thờ đó Sa-lô-môn dâng một ngàn con sinh làm của lễ thiêu. Tại Ga-ba-ôn, lúc ban đêm, Đức Giê-hô-va hiện đến cùng Sa-lô-môn trong cơn chiêm bao, và phán với người rằng: Hãy xin điều gì ngươi muốn ta ban cho ngươi” (I Các Vua 3:4-5).

Đây là những câu nói mà tôi đã trông mong ​​từ Đức Chúa Trời. Tôi đã trông mong Đức Chúa Trời quở trách Salômôn về tội lỗi của ông và kêu gọi ông ăn năn và thờ phượng Ngài sao cho đúng cách. Thay vì thế, Đức Chúa Trời lại hiến cho Salômôn bất cứ điều chi ông mong muốn. Đúng là một việc đáng kinh ngạc thay!Sự chú ý của tôi được rút ra từ Thi thiên 72, một Thi thiên do David viết ra cho (hoặc vì ích của) Salômôn, hay do chính mình Salômôn viết ra:

“Hỡi Đức Chúa Trời, xin ban cho vua sự xét đoán của Chúa, Và ban cho vương tử sự công bình của Ngài. Người sẽ đoán xét dân sự Chúa cách công bình, Xử kẻ khốn cùng cách ngay thẳng. Nhân vì sự công bình, các núi và gò nỗng Sẽ đem bình an đến cho dân sự. Người sẽ đoán xét kẻ khốn cùng của dân, Cứu con cái người thiếu thốn, và chà nát kẻ hà hiếp” (Thi thiên 72:1-4).

Tôi vô cùng biết ơn vì có các thắc mắc của một vài người bạn trong nhà thờ của chúng ta sau khi tôi dạy bài học này. Đầu đề đọc: "Viết cho Salômôn" (bảng Kinh thánh NET, KJV), hoặc "của Salômôn" (NKJV, NASB, NIV, NRSV). Chữ Hy bá lai đặt trước tên của Salômôn cũng có thể có nghĩa như thế, đó là sự lựa chọn của dịch giả. Lúc đầu, tôi có khuynh hướng cho rằng Thi thiên do Salômôn viết ra, song tôi đã đổi ý. Nếu Thi thiên được Salômôn viết ra, có quá nhiều điều nói về Salômôn trong đó. Tôi tin chính David đã viết Thi thiên này nói về con trai của mình, với hy vọng rằng qua Salômôn (hoặc ít nhất là dòng dõi của ông), giao ước với David (II Samuên 7) sẽ được ứng nghiệm bởi Đấng Mêsi. Vấn đề này có nghĩa là phải có cách xử lý đúng mức đối với lời tiên tri. Điều nầy có đáng ngạc nhiên không? Nhận thức được về Thi thiên nầy, không có gì là lạ khi Salômôn cầu xin Chúa ban cho sự khôn ngoan – chính ý muốn của cha ông! Dù là thế nào, trong khi Salômôn xưng rằng ông thiếu khôn ngoan, ông tỏ ra sự khôn ngoan tuyệt vời trong lời lẽ ông kêu cầu:
“Sa-lô-môn thưa rằng: Chúa đã lấy ơn lớn đãi kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, theo như người lấy sự trung tín, sự công bình và lòng ngay trọn vẹn mà đi trước mặt Đức Giê-hô-va; lại Chúa có giữ ơn lớn ấy cho người, mà ban cho người một con trai ngồi trên ngai của người, y như đã có ngày nay. Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi ôi! bây giờ Chúa đã khiến kẻ tôi tớ Chúa trị vì kế Đa-vít, là cha tôi; nhưng tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ chẳng biết phải ra vào làm sao. Kẻ tôi tớ Chúa ở giữa dân của Chúa chọn, là một dân đông vô số, không thể đếm được. Vậy, xin ban cho kẻ tôi tớ Chúa tấm lòng khôn sáng, để đoán xét dân sự Ngài và phân biệt điều lành điều dữ; vì ai có thể đoán xét dân rất lớn này của Chúa?” (I Các Vua 3:6-9).

Tôi lấy làm lạ khi thấy chẳng có đề cập gì đến Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong các câu chuyện của Kinh Thánh nói về cuộc đời của Salômôn, tuy nhiên ông là một người thông minh nhất từng sinh sống. Đức Thánh Linh rõ ràng giáng trên Saulơ có thể thấy được bằng mắt thường, một thời gian ngắn sau khi ông được xức dầu làm vua (I Samuên 10:10-11). Đức Thánh Linh cũng giáng trên David khi ông được xức dầu làm Vua của Israel (I Samuên 16:13). Tuy nhiên, chẳng có đề cập gì đến Đức Thánh Linh giáng trên Salômôn tại thời điểm ông được xức dầu; thực vậy, chẳng có nhắc gì đến Đức Thánh Linh giáng trên ông cả. Chúng ta giải thích vấn đề này như thế nào đây? Thành thật mà nói, tôi không dám chắc. Tôi có khuynh hướng nghĩ rằng Đức Thánh Linh giáng trên Salômôn khi đáp lời yêu cầu của ông về sự khôn ngoan, mặc dù không có một sự tỏ ra ngoạn mục nào của sự Đức Thánh Linh giáng trên Salômôn. Có lẽ chúng ta cần phải hiểu rằng một người không cần phải có một kinh nghiệm tuyệt đẹp mới được Đức Thánh Linh mặc lấy quyền phép cho.
Trong trường hợp của Salômôn, "có tiếng mà không có miếng". Ngay sau khi được truyền rằng Đức Chúa Trời ưng chuẩn yêu cầu của Salômôn xin ban cho sự khôn ngoan (cùng với sự giàu có và danh tiếng - 3:13), chúng ta tìm thấy một số trường hợp nói tới sự khôn ngoan trong đời sống của ông. Cho phép tôi liệt kê một số trường hợp:

Thứ nhứt, có trường hợp khôn ngoan riêng mà chúng ta nhìn thấy từ các hành động của Salômôn trong những câu nối theo sau chiêm bao của ông:

“Bấy giờ, Sa-lô-môn thức dậy, thấy là một điềm chiêm bao. Người trở về Giê-ru-sa-lem, đứng trước mặt hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, dâng của lễ thiêu cùng của lễ thù ân, và đãi tiệc cho hết thảy tôi tớ mình” (I Các Vua 3:15).

Đúng là một sự ngạc nhiên đầy thú vị, mấy câu này được ghi lại cho chúng ta ngay sau khi đọc ba câu đầu của cùng chương này! Salômôn nhận được chiêm bao trong khi ông ở tại Gabaôn, ông đã đến đó đặng dâng của lễ thiêu (3:4), mặc dù điều nầy là sai (3:3). Khi Đức Chúa Trời ưng chuẩn ban cho Salômôn lời cầu xin về sự khôn ngoan, việc đầu tiên nhà vua đã làm là trở về thành Jerusalem rồi dâng lên của lễ thiêu và của lễ thù ân "trước mặt hòm giao ước của Đức Giêhôva" (3:15). Tôi nghĩ tất cả chúng ta sẽ đồng ý rằng việc dâng các thứ của lễ ở những nơi cao là dại dột; việc dâng các thứ của lễ trước mặt hòm giao ước mới là cách làm khôn ngoan. Sự chứng tỏ thứ nhứt của Salômôn về sự khôn ngoan đã có trong đời sống cá nhân của chính ông, trong sự vâng phục đối với các mạng lịnh của Đức Chúa Trời về sự thờ phượng.
Thứ hai, có trường hợp nói tới sự khôn ngoan về tư pháp của Salômôn, như đã được thấy trong cách ông xử lý cuộc tranh chấp giữa hai người đàn bà, cả hai người đều đòi cùng một đứa con là con của chính họ (3:16-28). Hai kỵ nữ đã đến trước mặt Salômôn xin ông giải quyết cuộc tranh chấp của họ. Cả hai người đàn bà nầy đều có con, nhưng một trong số họ vô tình làm cho đứa trẻ chết ngạt trong đêm. Mỗi người đều xưng đứa trẻ sống là con của mình. Dường như không có cách nào để tìm biết được sự thật, nhưng Salômôn đã xử sự một cách khôn ngoan. Ông cho lấy gươm ra và đe dọa chặt đứa trẻ ra làm hai, rồi trao cho mỗi người một nửa. Người mẹ của đứa trẻ đã chết sẵn sàng chấp nhận cách xét xử này – một khi cô ta không thể có được đứa con của người đàn bà kia, cô ta cũng không muốn người đàn bà kia có lại con của mình. Hãy để cho Salômôn giết đứa trẻ đi. Người mẹ của đứa trẻ còn sống vốn quan tâm nhiều đến con của mình đến nỗi cô sẵn sàng nhường đứa trẻ ấy, chỉ để cứu mạng nó thôi. Salômôn vốn biết đứa trẻ nầy là con của cô rồi truyền rằng đứa trẻ được trao cho mẹ thật của nó. Ai nấy đều ngạc nhiên trước sự khôn ngoan của Salômôn, sự khôn ngoan mà ông đã cầu xin.
Thứ ba, có trường hợp nói tới sự khôn ngoan về mặt quản trị của Salômôn, như đã thấy nơi những người mà ông đã chọn cho "nội các" của mình (4:1-19).
Thứ tư, chúng ta cũng được cung ứng cho một trường hợp nói sới sự giàu có và vinh hiển mà Đức Chúa Trời đã hứa ban cho Salômôn (4:20-28). Chúng ta nhìn thấy từ những câu nầy, hết thảy người Do thái dường như rất thịnh vượng và bình an dưới quyền lãnh đạo của Salômôn. Các đường biên giới của Israel đã ở vào điểm rộng nhất của chúng. Đồng thời, chúng ta được cho biết thể nào Salômôn đã sống rất thọ. Việc tiêu thụ hàng hóa bởi Salômôn và triều đình của ông là rất lớn, giống như Samuên đã cảnh báo nhiều năm trước đó ở I Samuên 8:11-18. Mặc dù đã thốt ra không có bất kỳ lời xét đoán nào, sự thịnh vượng của Salômôn đã vượt quá đường ranh mà Đức Chúa Trời đã vạch ra cho các vua của Israel trong Phục truyền luật lệ ký 17. Rắc rối đang có ở trước mặt, mặc dù nó chưa rõ ràng lắm.

Thứ năm, chúng ta nhìn thấy sự khôn ngoan của Salômôn trong các sáng tác âm nhạc, trong nghiên cứu và trong tác phẩm của ông:
“Đức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan, sự thông sáng rất cao, cùng lòng rộng rãi như cát trên bờ biển. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người phương đông, và sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô. Người khôn ngoan hơn mọi người, khôn ngoan hơn Ê-than, người Ếch-ra-hít, hơn Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai Ma-hôn; danh tiếng người đồn ra trong các dân tộc chung quanh. Người nói ba ngàn câu châm ngôn, và làm một ngàn năm, bài thơ. Người luận về cây cối, từ cây bá hương của Li-ban cho đến chùm kinh giới mọc ra nơi vách; người cũng có luận về loài vật, chim, loài công trùng, và cá. Có kẻ từ các dân tộc đến nghe sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, và các vua ở thế gian mà đã nghe nói về sự khôn ngoan của người, đều sai sứ đến” (
I Các Vua 4:29-34).

Sự khôn ngoan của Salômôn vượt quá sự khôn ngoan của bất cứ ai trong thời của ông, và ngay cả trong thời của chúng ta nữa. Ông là một hỗn hợp tốt nhất của Leonardo da Vinci, Benjamin Franklin, George Washington Carver, Einstein, Beethoven, Leonard Bernstein, và George Gershwin. Nhân vật này là một thi hào, nhạc sĩ, khoa học gia, và là nhà văn. Cả nước dường như hưởng lợi từ tình trạng được ơn của ông. Thật vậy, rất nhiều người hưởng lợi từ công việc của ông trong môn sinh học và thực vật học. Số người từ xa đến để hỏi ông nhiều câu và để nghe ông trò chuyện.

Thứ sáu, Salômôn đã thể hiện sự khôn ngoan tuyệt vời trong vai trò một nhà xây dựng. Nhiều dự án xây dựng lớn đã được bắt đầu và hoàn tất trong cuộc đời của Salômôn, trên hết trong số đó là việc xây dựng đền thờ. Hiram, vua của Ty-rơ, đã nhanh chóng công nhận sự khôn ngoan của Salômôn:
“Khi Hi-ram nghe lời của Sa-lô-môn, thì mừng lắm, mà rằng: Ngày nay đáng khen ngợi thay Đức Giê-hô-va, vì đã ban cho Đa-vít một con trai khôn ngoan, để trị vì dân sự lớn này!” (I Các Vua 5:7).

Chúng ta phải nhìn nhận rằng trong khi Salômôn đã nắm lấy phần việc xây dựng đền thờ và cung hiến nó, thực sự chính David mới là người lo liệu mọi sự chuẩn bị cho cấu trúc của đền thờ. David đã lên kế hoạch, David và nhân dân Israel đã dâng hiến vàng bạc, và David đã tổ chức sự thờ phượng của người Lê-vi. Chúng ta nhìn thấy vấn đề nầy ở I Sử ký 23-29. Vấn đề này không tách bất cứ điều chi ra khỏi kỹ năng của Salômôn trong vai trò một nhà xây dựng, song chỉ để nhắc cho chúng ta nhớ về cách thức David đã lo liệu các sự chuẩn bị cho đền thờ trước khi ông qua đời.
Các chiều kích của đền thờ bằng hai lần kích thước của đền tạm, dấu tích của đền ấy vẫn được xem xét cho đến nay, và chắc chắn đền thờ thì cao hơn - 45 feet theo chiều cao. Đền thờ có nhiều thủ công mỹ nghệ và có rất nhiều vàng. Phải tốn công lao động của hàng ngàn người - 180.000 người – chưa nhắc tới 3300 đốc công (5:13-16). Dự án đã tốn mất bảy năm mới hoàn thành (6:37-38).
Tôi có chút bối rối bởi một vài điều liên quan đến việc xây dựng đền thờ. Tôi rất đỗi ngạc nhiên tại sao lại có nhiều người nước ngoài tham gia vào dự án này:

“Vua Sa-lô-môn sai người đòi Hi-ram ở Ty-rơ đến. Người là con trai của một đàn bà góa về chi phái Nép-ta-li, còn cha là người Ty-rơ, làm thợ đồng. Hi-ram đầy sự khôn ngoan, thông hiểu, có tài làm các thứ công việc bằng đồng. Người đến vua Sa-lô-môn, và làm mọi công việc người” (I Các Vua 7:13-14).
“Nầy, là cớ sao Sa-lô-môn đã bắt xâu đặng xây cất đền Đức Giê-hô-va và cung điện mình, luôn với Mi-lô, vách thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, và Ghê-xe. Pha-ra-ôn, vua của Ê-díp-tô, đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, thiêu đốt nó, và giết những dân Ca-na-an ở trong thành, rồi ban thành ấy làm của vu qui cho con gái mình, là vợ Sa-lô-môn. Vậy, Sa-lô-môn xây thành Ghê-xe, Bết-Hô-rôn dưới, Ba-lát, và Tát-mốt, tại trong đất rừng của xứ; lại xây các thành có những kho trữ lương phạn của Sa-lô-môn, những thành để xe cộ, những thành cho quân kỵ, và mọi điều gì đẹp lòng Sa-lô-môn xây cất tại Giê-ru-sa-lem, trong Li-ban và trong cả xứ phục dưới quyền người. Hết thảy những người còn sống lại trong dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, dân Giê-bu-sít, không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, tức là các con cháu của chúng nó còn lại ở trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên không đủ sức diệt hết được, thì Sa-lô-môn bắt phụ làm xâu dịch cho đến ngày nay. Nhưng Sa-lô-môn không bắt dân Y-sơ-ra-ên làm tôi mọi; song họ làm binh chiến, tôi tớ, quan trưởng, quan tướng, quan cai xe, và lính kỵ của người” (
I Các Vua 9:15-22).

Khi đền tạm được xây dựng, nó được xây từ các vật liệu và tiền đóng góp của dân Do Thái trong suốt cuộc đời của David (I Sử ký 29:1-20). Tôi không nhìn thấy sự dự phần vui vẻ của dân chúng, như chúng ta đã thấy trong việc xây dựng đền tạm và trong những sự chuẩn bị mà David đã lo liệu cho đền thờ. Khi đền tạm được xây lên, Đức Chúa Trời đã ban ơn cho những người Do Thái nhất định như Bếtsalênên và Ôhôliáp (Xuất Êdíptô Ký 31:1-11). Tại sao đền thờ được xây dựng bởi những người thợ có tài khéo lại là người nước ngoài, mọi khả năng của họ không thấy nói là được ban cho bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời? Và tại sao cung điện Salômôn xây dựng cho chính mình lại tốn gần gấp đôi thời gian xây dựng (xem 7:1)? Có khả năng nào điều này gợi ý đến thời điểm xây dựng "ngôi nhà thuộc linh" của Đức Chúa Trời sẽ liên quan đến các dân Ngoại cũng như người Do Thái (xem Ê-phê-sô 2:11-22)? Thành thật mà nói, tôi không dám chắc tôi có câu trả lời.
Có một việc mà chúng ta phải lưu ý là khi đền thờ cuối cùng cũng đã hoàn tất, Đức Chúa Trời nắm lấy quyền sở hữu nó:

“Những thầy tế lễ đem hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến nơi nó, trong nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bin. Vì các chê-ru-bin giương cánh ra trên nơi để hòm, che thân trên hòm và các đòn khiêng. Các đòn khiêng dài, đến nỗi người ta, từ nơi thánh ở trước nơi chí thánh, có thể thấy được, nhưng ở ngoài thì chẳng thấy. Các đòn ấy ở đó cho đến ngày nay. Trong hòm chỉ có hai bảng đá mà Môi-se đã để, tại núi Hô-rếp, khi Đức Giê-hô-va lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, lúc họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô. Xảy khi những thầy tế lễ đã ra khỏi nơi thành, bèn có mây đầy dẫy nhà của Đức Giê-hô-va, đến nỗi những thầy tế lễ vì có mây ấy không thể đứng đó mà hầu việc được, vì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy đền của Đức Giê-hô-va” (I Các Vua 8:6-11).
“Khi Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống đốt của lễ thiêu và các hi sinh, sự vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy trong đền” (
II Sử ký 7:1).

Không ai nghi ngờ rằng việc xây dựng đền thờ được xem là một trong những đóng góp lớn nhất của Salômôn. Nhiều thời gian được dành cho việc xây dựng đền thờ hơn bất kỳ khía cạnh nào khác trong cuộc sống của ông. Lời cầu nguyện cung hiến của Salômôn chắc chắn là một trong những đỉnh cao đời sống thuộc linh của ông. Lời cầu nguyện của ông không tỏ ra sự Salômôn nắm bắt được luật pháp và vai trò của đền thờ. Trong trường hợp ông tiếp nhận chủ yếu từ cha mình, hoặc đến từ sự suy gẫm về luật pháp, đang được tranh luận. Tôi có khuynh hướng nghĩ rằng Salômôn đã tiếp thu được hầu hết những hiểu biết thuộc linh từ cha mình. Cho phép tôi đưa ra một số quan sát có liên quan đến lời cầu nguyện cung hiến của Salômôn.
Thứ nhất, lời cung hiến nầy về đền thờ phần lớn lời cầu nguyện của Salômôn đều nhắm đến Đức Chúa Trời, là Đấng chiếm lấy nơi ngự trong trong đền thờ (8:10-11, 23...). Đây không phải là lời phát biểu mà Salômôn đưa ra với đám dân động đã nhóm lại đâu, mà là lời nài xin với Đức Chúa Trời một khi đền thờ thuộc về Ngài.
Thứ hai, có một liên kết rất chặt chẽ giữa lời cầu nguyện cung hiến này và Giao ước với Môise. Salômôn lường trước các biến cố nhất định xảy đến trong tương lai, là điều sẽ giục giã dân sự của Đức Chúa Trời hướng về đền thờ mà cầu nguyện. Các biến cố nầy gồm:
Bị kẻ thù đánh bại (8:33-34; xem Phục truyền luật lệ ký 28:25 ...)
Hạn hán và đói kém (8:35-40; xem Phục truyền luật lệ ký 28:23-24)
Bị làm phu tù trong một đất ngoại bang (8:46-51; xem Phục truyền luật lệ ký 28:36-37, 63-68)
Tất cả mọi sự nầy đều được lường trước trong sách Phục truyền luật lệ ký. Do đó, lời cầu nguyện của Salômôn được nắn đúc và dẫn dắt bởi giao ước với Môise.
Thứ ba, lời cung hiến này không những là một lời cầu nguyện, mà còn nói về sự cầu nguyện nữa. Từ ngữ "cầu nguyện" hoặc "nài xin" xuất hiện 17 lần trong I Các Vua 8. Đền thờ được dự trù để khuyến khích và tạo điều kiện cho dân sự của Đức Chúa Trời dâng lời cầu nguyện. Những người đến cầu nguyện có thể bao gồm cả người Do Thái và dân ngoại:
“Vả lại, về khách lạ, là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh Ngài từ xứ xa đến (vì người ngoại bang sẽ nghe nói về danh lớn của Chúa, về cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Chúa), khi người đến cầu nguyện trong nhà này, xin Chúa ở trên trời, là nơi Chúa ngự, dủ nghe và làm theo mọi điều người khách lạ sẽ cầu xin Chúa để cho muôn dân của thế gian nhận biết danh Chúa, kính sợ Chúa, y như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và cho biết rằng danh Chúa xưng ra trên đền này mà tôi đã xây cất” (I Các Vua 8:41-43).

Chắc chắn điều này giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Chúa của chúng ta rất buồn lòng khi một số người Do Thái chiếm lấy hành lang đền thờ rồi biến nó thành một khu vực kinh doanh, thay vì là nơi để cầu nguyện:
“Rồi Ngài dạy dỗ chúng mà rằng: há chẳng có lời chép: Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân hay sao? Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp” (Mác 11:17)

Thứ tư, có một sự chú trọng mạnh mẽ nhắm tới sự ứng nghiệm các lời hứa giao ước của Đức Chúa Trời trong lời cầu nguyện này. Giữa vòng những thứ khác, Salômôn đang ngợi khen Đức Chúa Trời vì đền thờ này như là sự ứng nghiệm lời hứa của Ngài. Mặt khác, có sự tạ ơn và ngợi khen cho việc ứng nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời cho Áp-ram và Môise nữa:

“Đáng khen ngợi Đức Giê-hô-va, là Đấng đã ban sự bình yên cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, tùy theo các lời Ngài đã hứa! Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se, kẻ tôi tớ Ngài, phán ra, chẳng có một lời nào không ứng nghiệm” (I Các Vua 8:56, phần nhấn mạnh là của tôi).
“Vậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền này cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước của Đức Giê-hô-va, tức là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô” (
I Các Vua 8:20-21, phần nhấn mạnh là của tôi).

Chúng ta thấy sự ứng nghiệm giao ước với Ápraham trong số lượng người Do Thái, trong các đường biên giới địa lý của Israel dưới thời Salômôn, và trong phước lành đã đến với các dân ngoại:

“Vả, Đức Giê-hô-va có phán cùng Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng bà con và nhà cha ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước” (Sáng thế ký 12:1-3, phần nhấn mạnh là của tôi; so sánh I Các Vua 8:41-43, đã kể ở trên).
“Ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ sông Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát, là xứ của các dân Kê-nít, Kê-nê-sít, Cát-mô-nít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im, A-mô-nít, Ca-na-an, Ghi-ê-ga-sít và Giê-bu-sít” (
Sáng thế ký 15:18-21; cũng xem Phục truyền luật lệ ký 11:24; Giôsuê 1:4).
“Sa-lô-môn cai trị trên các nước, từ sông cái cho đến xứ Phi-li-tin, cho đến ranh Ê-díp-tô. Các nước ấy đều tiến cống và phục Sa-lô-môn trọn đời người” (
I Các Vua 4:21).

Nhiều hơn bất cứ điều chi khác, Salômôn xem sự hoàn thành đền thờ trong các giới hạn của giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với David cha mình:

“Người nói rằng: Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì từ miệng Ngài có phán hứa với Đa-vít, cha ta, và bởi tay Ngài đã làm ứng nghiệm lời ấy; Ngài phán rằng: Từ ngày ta đã đem Y-sơ-ra-ên ta ra khỏi Ê-díp-tô, ta không chọn thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất tại đó một cái nhà cho danh ta ngự; nhưng ta đã chọn Đa-vít để người trị vì dân Y-sơ-ra-ên ta. Vả, Đa-vít, cha ta, có ý cất một cái đền cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít, cha ta, rằng: Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải; song ngươi sẽ chẳng cất đền ấy đâu, bèn là con trai ngươi, do lòng ngươi sanh ra, sẽ cất đền cho danh ta. Vậy, Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán; vì ta kế vị Đa-vít, cha ta, ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa, và ta đã cất đền này cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Tại đó, ta đã dọn một chỗ để hòm; trong hòm có sự giao ước của Đức Giê-hô-va, tức là giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô” (I Các Vua 8:15-21).

Thứ năm, có một ý thức trông mong mạnh mẽ trong lời cầu nguyện cung hiến nầy xin Đức Chúa Trời làm ứng nghiệm hoàn toàn giao ước của Ngài với David:
“Đối cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, Chúa có giữ lời Ngài đã hứa với người. Thật, hễ điều chi miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm hoàn thành, y như chúng tôi thấy ngày nay. Vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! ngày nay xin làm trọn lời Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi, rằng: Nếu con cháu ngươi cẩn thận các đường lối mình, đi ở trước mặt ta, y như ngươi đã đi, thì trước mặt ta sẽ chẳng hề thiếu một kẻ hậu tự ngươi đặng ngồi trên ngôi nước Y-sơ-ra-ên đâu. Hỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! xin hãy làm cho ứng nghiệm lời Chúa đã hứa cùng kẻ tôi tớ Chúa, là Đa-vít, cha tôi” (
I Các Vua 8:24-26, phần nhấn mạnh là của tôi).

Khi những lời này của Salômôn được đem so sánh với Thi thiên 72, một người sẽ có cảm xúc riêng biệt thấy rằng Salômôn hy vọng triều đại của ông có thể là sự ứng nghiệm giao ước với David. Khi bạn dừng lại để suy nghĩ về vấn đề ấy, Salômôn và những người khác đã có cơ sở cho sự suy nghĩ theo những dòng Kinh thánh này. Rốt lại, vương quốc của Salômôn có thể chỉ ra sự ứng nghiệm giao ước của Ápraham và Môise. Dòng dõi của Ápraham sẽ đông như cát trên bờ biển (I Các Vua 4:20). Israel hiện đang sống trên Đất Hứa, họ quản trị các nước xung quanh, và họ đang sống trong sự thịnh vượng rất lớn. Nếu tất cả những lời hứa này được ứng nghiệm, thì tại sao không phải là lời hứa của Đức Chúa Trời được lập với David, và tại sao không phải là qua con trai ông, là Salômôn?

Thứ sáu, lời lẽ của Salômôn tỏ ra rằng ông hiểu rất đúng sự hiện diện của Đức Chúa Trời không thể, và sẽ không bị giới hạn trong một đền thờ:
“Bấy giờ, Sa-lô-môn nguyện rằng: Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt. Hỡi Đức Chúa Trời! tôi đã cất xong một cái đền dùng làm nơi ngự của Ngài, tức một nơi Ngài ở đời đời … Nhưng quả thật rằng Đức Chúa Trời ngự trên đất này chăng? Kìa, trời, dầu đến đỗi trời của các từng trời chẳng có thể chứa Ngài được thay, phương chi cái đền này tôi đã cất!” (
I Các Vua 8:12-13, 27).

Đây là điểm mà Êtiên sẽ nắm lấy nhiều năm sau đó khi ông bị cáo buộc nói nghịch lại các đền thờ (Công Vụ các Sứ Đồ 7:45-50)
Khó khăn ở phía trước
I Các Vua 9-10

Các dấu hiệu cảnh báo đã có rồi, nếu có ai có mắt để nhìn thấy chúng. Trong Sách Phục truyền luật lệ ký, Đức Chúa Trời đã ban hành những lời cảnh báo đối với quốc gia Israel về những mối nguy hiểm mà họ sẽ phải đối mặt với một khi họ bước vào xứ Canaan. Ngài cảnh báo họ về nguy cơ để cho người ngoại ở lại trong xứ Canaan và kết hôn chéo với họ. Họ không được thờ lạy các tà thần của người Canaan (7:1-6). Chiến thắng của họ trong xứ Canaan không thích nghi với sự rộng lớn của họ như là một quốc gia, mà là do sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với các lời hứa giao ước của Ngài (7:7-11). Sau đó, ở chương 8, chúng ta tìm thấy những lời cảnh báo nầy:

“Ngươi khá cẩn thận, e quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, không giữ gìn những điều răn, mạng lịnh và luật lệ của Ngài, mà ngày nay ta truyền cho ngươi chăng; lại e sau khi đã ăn no nê, cất nhà tốt đặng ở, thấy bò chiên của mình thêm nhiều lên, bạc, vàng, và mọi tài sản mình dư dật rồi, thì bấy giờ lòng ngươi tự cao, quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, là Đấng đã đem ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, tức khỏi nhà nô lệ chăng. Ấy là Ngài đã dẫn ngươi đi ngang qua đồng vắng mênh mông gớm ghiếc nầy, đầy những rắn lửa, bò kẹp, đất khô khan, chẳng có nước; Ngài khiến nước từ hòn đá rất cứng phun ra cho ngươi; lại trong đồng vắng, Ngài ban cho ngươi ăn ma-na mà tổ phụ ngươi chưa hề biết, để hạ ngươi xuống và thử ngươi, hầu về sau làm ơn cho ngươi. Vậy, khá coi chừng, chớ nói trong lòng rằng: Ấy nhờ quyền năng ta và sức lực của tay ta mà đoạt được những sản nghiệp nầy. Hãy nhớ lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì ấy là Ngài ban cho ngươi sức lực đoạt được những sản nghiệp, để làm trọn sự giao ước Ngài đã thề cùng tổ phụ ngươi, y như Ngài đã làm ngày nay. Nếu ngươi quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà theo các thần khác, hầu việc và quì lạy trước các thần ấy, thì ngày nay ta cáo quyết rằng: Các ngươi hẳn sẽ bị diệt mất! Các ngươi sẽ bị diệt mất như những dân tộc kia mà Đức Giê-hô-va tuyệt diệt trước mặt các ngươi, bởi vì không nghe theo tiếng Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi” (Phục truyền luật lệ ký 8:11-20).

Israel chưa bao giờ kinh nghiệm sự thịnh vượng và thành công ở một cấp độ mà Đức Chúa Trời chúc phước cho họ trong đời trị vì của Salômôn. Bây giờ, mối nguy hiểm ấy là Salômôn (và những người khác) sẽ cho rằng ông là cái cớ cho sự thịnh vượng của họ. Salômôn có thể bắt đầu suy nghĩ quá cao về mình, và dân Do Thái có thể "thần tượng hóa" vị vua của họ, thay vì thờ phượng và hầu việc vị Vua thực sự của họ, là chính mình Đức Chúa Trời. Chính vì lý do này mà Đức Chúa Trời hiện ra với Salômôn lần thứ hai với những lời cảnh cáo:

“Khi Sa-lô-môn đã cất xong nhà của Đức Giê-hô-va, cung điện và mọi sự người muốn cất, thì Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người lần thứ nhì, y như Ngài đã hiện ra cùng người tại Ga-ba-ôn. Đức Giê-hô-va phán với người rằng: Ta đã nhậm lời cầu nguyện nài xin của ngươi thưa trước mặt ta; ta đã biệt riêng ra thánh cái đền này mà ngươi đã cất, để cho danh ta ngự tại đó đời đời; mắt và lòng ta sẽ thường ở đó mãi mãi. Còn ngươi, nếu ngươi đi trước mặt ta, như Đa-vít, cha ngươi, đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng mà làm theo các điều ta đã phán dặn ngươi, giữ những luật lệ và mạng lịnh của ta, bấy giờ ta sẽ làm cho ngôi nước ngươi kiên cố đến đời đời trên Y-sơ-ra-ên, y như ta đã hứa cùng Đa-vít, cha ngươi, mà rằng: Ngươi sẽ chẳng hề thiếu kẻ hậu tự ngươi ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên. Nhưng nếu ngươi và con cháu các ngươi xây bỏ ta, không giữ các điều răn và luật lệ ta đã truyền cho các ngươi, đi hầu việc những thần khác và thờ lạy chúng nó, thì ta sẽ truất Y-sơ-ra-ên khỏi đất ta đã ban cho chúng nó, trừ bỏ khỏi trước mặt ta cái đền này mà ta đã vì danh ta biệt riêng ra thánh, và Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên lời tục ngữ và trò cười giữa muôn dân. Còn đền này, dầu cao dường nào, ai đi ngang qua gần nó cũng lấy làm lạ lùng, chê bai, mà rằng: Cớ sao Đức Giê-hô-va có làm cho xứ này và đền này như vậy? Người ta sẽ đáp rằng: Ay vì chúng nó đã lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng nó, là Đấng đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ê-díp-tô; họ theo các thần khác, thờ lạy các thần ấy, và hầu việc chúng nó; vì cớ đó, Đức Giê-hô-va đã giáng trên họ các tai họa này” (I Các Vua 9:1-9).

Những lời lẽ này là một sựựự lặp lại mọi điều Đức Chúa Trời đã phán với dân Do Thái qua tiên tri Samuên khi dân sự yêu cầu phải có một vua giống như các nước khác:

“Song thấy Na-hách, vua dân Am-môn, đến đánh các ngươi, các ngươi nói cùng ta rằng: Không được; phải có một vua cai trị chúng tôi; mà thật Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã là Vua các ngươi. Bây giờ, kìa vua các ngươi đã chọn, và đã cầu xin. Đức Giê-hô-va đã lập người làm vua trên các ngươi. Nếu các ngươi kính sợ Đức Giê-hô-va, phục sự Ngài, vâng theo lời phán Ngài, chẳng nghịch mạng lịnh của Ngài; nếu các ngươi và vua cai trị các ngươi vâng theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì chắc các ngươi sẽ được may mắn. Còn nếu các ngươi không vâng theo lời phán của Đức Giê-hô-va, bội nghịch mạng lịnh của Ngài, thì tay của Đức Giê-hô-va ắt sẽ giáng họa trên các ngươi như đã giáng họa trên tổ phụ các ngươi” (I Samuên 12:12-15).

Cả Israel và vua của mình phải tuân theo các điều răn mà Đức Chúa Trời đã đặt ra trong luật pháp của Ngài. Nếu họ tuân theo các điều răn của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục ban phước cho họ. Nếu không tuân theo, Đức Chúa Trời sẽ xét đoán dân sự Ngài, như phần còn lại của thế gian đã nhìn thấy và đã tiếp thu. Vua của Israel sẽ không gạt bỏ luật pháp - luật pháp phải được tuân thủ, cả nhà vua và dân sự. Chúng ta sắp sửa nhìn thấy Salômôn sẽ không sống theo luật pháp. Trước khi chúng ta đọc về sự sụp đổ của Salômôn, chúng ta được nhắc nhớ đến tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời đã lập cho nhà vua và cho dân sự.
Các chỉ dẫn đầu tiên nói tới sự rắc rối xuất hiện ở I Các Vua 9:10-10:29. Ở 9:10-14, chúng ta đọc thấy rằng vua Hiram của Ty-rơ vốn không hài lòng với các thành phố mà Salômôn đã trao cho ông. Hiram gọi chúng là Cabun (dường như có nghĩa là "chẳng tốt đẹp gì"). Có phải Salômôn bắt đầu lạm dụng quyền lực của mình không? Bạn của ông là Hiram chẳng hài lòng với cách Salômôn đã đối xử với ông ta.
Ở 9:15-23, tác giả mô tả các nhân công làm việc mà Salômôn sử dụng để thực hiện dự án xây dựng của mình. Ở các câu 17-19, Kinh thánh cho chúng ta biết về một số thành phố mà Salômôn đã xây dựng:

“Vậy, Sa-lô-môn xây thành Ghê-xe, Bết-Hô-rôn dưới, Ba-lát, và Tát-mốt, tại trong đất rừng của xứ; lại xây các thành có những kho trữ lương phạn của Sa-lô-môn, những thành để xe cộ, những thành cho quân kỵ, và mọi điều gì đẹp lòng Sa-lô-môn xây cất tại Giê-ru-sa-lem, trong Li-ban và trong cả xứ phục dưới quyền người” (I Các Vua 9:17-19, phần nhấn mạnh là của tôi).

Ba lần trong câu chuyện nói tới đời sống của Salômôn, Kinh thánh cho chúng ta biết ông đã yêu cầu một số lượng lớn ngựa và xe ngựa (I Các Vua 4:26, 9:19, 10:26, 28-29). Đây là một sự vi phạm các huấn thị của Đức Chúa Trời liên quan đến các vua trong Phục truyền luật lệ ký 17:

“Song vua ấy chẳng nên lo cho có nhiều ngựa, chớ vì muốn thêm nhiều ngựa mà dẫn dân sự trở lại xứ Ê-díp-tô; bởi Đức Giê-hô-va đã phán cùng các ngươi rằng: Các ngươi sẽ chẳng trở về đường đó nữa. Vua cũng không nên kén nhiều phi tần, e lòng người trở xấu xa; lại chẳng nên thâu góp nhiều bạc vàng. Vừa khi tức vị, vua phải chiếu theo luật pháp nầy mà những thầy tế lễ về dòng Lê-vi giữ, chép một bản cho mình. Bản ấy phải ở bên vua trọn đời, vua phải đọc ở trong, để tập biết kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cẩn thận làm theo các lời của luật pháp nầy, và hết thảy điều răn nầy” (Phục truyền luật lệ ký 17:16-19, phần nhấn mạnh là của tôi).

Ở các câu 20-23, chúng ta học được chỗ mà Salômôn nhận được công nhân để thực hiện dự án xây dựng của mình:
“Hết thảy những người còn sống lại trong dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, dân Giê-bu-sít, không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, tức là các con cháu của chúng nó còn lại ở trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên không đủ sức diệt hết được, thì Sa-lô-môn bắt phụ làm xâu dịch cho đến ngày nay. Nhưng Sa-lô-môn không bắt dân Y-sơ-ra-ên làm tôi mọi; song họ làm binh chiến, tôi tớ, quan trưởng, quan tướng, quan cai xe, và lính kỵ của người. Còn về các quan trưởng đặt lên coi sóc các công việc của Sa-lô-môn, số là năm trăm năm mươi người; họ cai trị dân làm công việc” (I Các Vua 9:20-23, phần nhấn mạnh là của tôi).

Vấn đề với công nhân bị cưỡng bức mà Salômôn đã sử dụng, vì họ là người Canaan, là giống dân mà Đức Chúa Trời đã chỉ thị dân sự Ngài phải tiêu diệt:

“Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã dẫn ngươi vào xứ mình sẽ nhận được, đuổi khỏi trước mặt ngươi nhiều dân tộc, là dân Hê-tít, dân Ghi-rê-ga-sít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, tức bảy dân tộc lớn và mạnh hơn ngươi, khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã phó cho các dân ấy cho, và ngươi đánh bại chúng, thì phải diệt hết chúng đi, chớ lập giao ước cùng, và cũng đừng thương xót lấy. Ngươi chớ làm sui gia với chúng, chớ gả con gái mình cho con trai họ, cũng đừng cưới con gái họ cho con trai mình, vì các dân tộc nầy sẽ dụ con trai ngươi lìa bỏ ta mà phục sự các thần khác, rồi cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng ngươi, diệt ngươi cách vội vàng” (Phục truyền luật lệ ký 7:1-4, phần nhấn mạnh là của tôi).

Chúng ta biết từ Các Quan Xét 1 là một số dân Canaan đã không bị tiêu diệt và dân Do Thái phải bằng lòng để cho họ sống giữa vòng họ. Khi người Do Thái được mạnh mẽ, họ đã biến hạng người này phục vụ như hạng lao động nô lệ:

“Dân A-mô-rít dồn người Đan ở trên núi, không cho họ xuống trũng. Dân A-mô-rít định ở tại núi Hê-re, A-gia-lôn, và Sa-an-bim; nhưng tay của nhà Giô-sép thắng chúng nó, nên chúng nó phải phục dịch. Địa phận dân A-mô-rít chạy từ dốc Ac-ráp-bim, từ Sê-la trở lên” (Các Quan Xét 1:34-36, phần nhấn mạnh là của tôi).

Bối cảnh lịch sử nầy có thể đã làm Salômôn cảm thấy không tội lỗi bao nhiêu trong cách đối xử của ông về dân xứ Canaan. Ông chỉ đối xử với dân Canaan giống như các người tiền nhiệm của ông đã đối xử -- bằng cách sử dụng họ làm hạng lao động cưỡng bức. Tuy nhiên, một người khó có thể nói, Salômôn đã để cho dân Canaan sống vì ông không thể đánh bại họ. Các lý do của ông dường như thực tế hơn nhiều – ông muốn giữ cho họ sống để làm những công việc mà dân tộc của ông không bằng lòng làm. Thực vậy, Salômôn muốn giữ cho dân Canaan sống để ông có thể sử dụng họ theo cùng một cách thức tương tự như sự đối xử của người Ai Cập đối với dân Do Thái đang ở trên đất nước họ -- bằng cách biến họ thành hạng lao động nô lệ.Chúng ta học biết ngay thất bại to lớn của Salômôn xảy đến như là một kết quả của việc ông có "những người vợ ngoại bang" (11:1….). Tôi muốn chỉ ra rằng điểm xoay chiều có thể đến với một "phụ nữ ngoại bang", là người không trở thành vợ của ông - ấy là Nữ hoàng Sêba:

“Khi nữ vương Sê-ba nghe nói về danh tiếng của Sa-lô-môn và về danh của Đức Giê-hô-va, bèn đến hỏi thử Sa-lô-môn nhiều câu đố. Bà đến Giê-ru-sa-lem có hầu hạ theo rất đông, lạc đà chở thuốc thơm, nhiều vàng và ngọc. Bà đến cùng Sa-lô-môn, nói với người mọi điều có ở trong lòng mình. Sa-lô-môn đáp các câu hỏi của bà, chẳng câu nào ẩn bí quá cho vua, mà vua không giải nghĩa nổi cho bà. Khi nữ vương Sê-ba thấy mọi sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, cung điện người đã cất, những món ăn trên bàn người, nhà cửa của tôi tớ người, thứ tự công việc của các quan, và đồ ăn mặc của họ, các quan chước tửu, và các của lễ thiêu người dâng trong đền Đức Giê-hô-va, thì mất vía. Rồi bà nói rằng: Điều tôi nghe nói trong xứ tôi về lời nói và sự khôn ngoan của vua, thì thật lắm. Song trước khi tôi chưa đến đây, và chưa thấy tận mắt những điều này, thì tôi chẳng tin; và kìa, người ta chẳng nói đến được phân nửa! Sự khôn ngoan và oai nghi của vua trổi hơn tiếng đồn tôi đã nghe. Các tôi tớ vua thật có phước thay! Các tôi tớ vua hằng đứng chầu trước mặt vua, nghe sự khôn ngoan của vua, lấy làm có phước thay! Đáng khen ngợi thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua, vì Ngài đẹp lòng vua, đặt vua trên ngôi của Y-sơ-ra-ên! Bởi vì Đức Giê-hô-va yêu dấu Y-sơ-ra-ên mãi mãi, nên Ngài đã lập vua làm vua đặng cai trị theo sự ngay thẳng và công bình” (I Các Vua 10:1-9).

Tôi được nhắc nhớ đến câu châm ngôn do chính Salômôn viết ra:

“Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm ngôn 16:18).

Theo ý của tôi, chuyến viếng thăm của Nữ hoàng Sêba đã nhen nhúm lên mớ than kiêu ngạo của Salômôn. Bà ấy đã nghe những câu chuyện nói về sự khôn ngoan của ông và nghĩ rằng họ đã phóng đại. Sau đó, bà đã đến thăm Salômôn để tận mắt mình xem thấy. Khi ông trả lời các câu hỏi khó khăn nhất của bà, bà thấy rất ấn tượng. Cái điều tệ hại nhất trong câu chuyện, ấy là bà đã nói cho ông biết như thế. Sẽ rất khó khăn cho Salômôn không tin vào những gì người phụ nữ này nói với ông. Rốt lại, hầu hết đó là sự thật. Nhưng trong quá trình nghe lời bà ta nói, tôi e rằng Salômôn bắt đầu hưởng lấy công trạng về sự khôn ngoan và địa vị của mình. Phân đoạn Kinh thánh không nói cho chúng ta biết trực tiếp sự việc nầy, nhưng rất là thú vị khi những gì nối theo sau lại là những chi tiết liên quan đến thành công to lớn của ông.Salômôn đã tích lũy rất nhiều của cải (10:14-22), nhưng Đức Chúa Trời đã cấm các vị vua của Israel làm như vậy (Phục truyền luật lệ ký 17:17). Người nào đã tới thăm Salômôn và lấy làm lạ trước sự khôn ngoan của ông, họ đến với những món quà tiến cống, những thứ làm tăng thêm hơn nữa sự giàu có của ông (10:23-25). Tất cả sự thành công và danh tiếng nầy dường như đã lót đường cho chương cuối của cuộc đời Salômôn, một chương không hay ho gì cho vị vua vĩ đại này.

Sự sụp đổ của Salômôn: Những người vợ ngoại bang
I Các Vua 11
“Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn lại còn thương mến nhiều người nữ của dân ngoại: tức là người Ê-đôm, Si-đôn, và Hê-tít. Chúng nó thuộc về các dân tộc mà Đức Giê-hô-va có phán với dân Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi và chúng nó giao thông với nhau; vì chúng nó hẳn sẽ quyến dụ lòng các ngươi hướng theo các thần chúng nó. Sa-lô-môn tríu mến những người nữ ấy. Người có bảy trăm hoàng hậu, và ba trăm cung nữ; chúng nó bèn làm cho người trở lòng. Trong buổi già yếu, các hoàng hậu của Sa-lô-môn dụ lòng người đi theo các thần khác: Đối cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, lòng người chẳng trọn lành như thể lòng của Đa-vít, là cha người. Vì Sa-lô-môn cúng thờ At-tạt-tê, nữ thần của dân Si-đôn, và thần Minh-côm, là thần đáng gớm ghiếc của dân Am-môn. Như vậy, Sa-lô-môn làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, chẳng vâng theo Đức Giê-hô-va cách trọn lành như Đa-vít, cha người, đã làm. Bấy giờ, Sa-lô-môn lại xây cất tại trên núi đối ngang Giê-ru-sa-lem, một nơi cao cho Kê-móc, vật đáng gớm ghiếc của dân Mô-áp, và cho Mo-lóc, vật đáng gớm ghiếc của dân Am-môn. Vua cũng làm như vậy cho hết thảy các hoàng hậu ngoại của mình, xông hương và tế lễ cho thần của chúng nó” (I Các Vua 11:1-8).

Thất bại của Salômôn không được mô tả cho đến cuối tiểu sử của mình, ở chương cuối cùng (I Các Vua 11) xử lý với sự trị vì của ông. Salômôn đã cưới nhiều vợ - 700 hoàng hậu và 300 cung phi. Bạn có thể tưởng tượng mình đang cố gắng lần theo tên tuổi của vợ và con của ông ấy không? Phục truyền luật lệ ký 17:17 nói rất rõ ràng về việc có nhiều vợ ngoại bang:

“Vua cũng không nên kén nhiều phi tần, e lòng người trở xấu xa; lại chẳng nên thâu góp nhiều bạc vàng” (Phục truyền luật lệ ký 17:17).

Sự cảnh báo mà Đức Chúa Trời đã ban ra qua Môise không sao chính xác hơn. Mấy người vợ của Salômôn đã thờ lạy các tà thần ngọai bang. Để giữ cho họ được hạnh phúc, Salômôn xây dựng nơi thờ tự cho họ. Cuối cùng, ngay cả Salômôn đã tham gia với họ trong việc thờ lạy các tà thần của họ. Salômôn, con người khôn ngoan nhất trên bề mặt của địa cầu, đang đóng vai kẻ ngốc.
Đức Chúa Trời đã nổi giận với Salômôn. Hai lần trước, Đức Chúa Trời đã hiện ra với ông và cảnh báo ông về mối nguy hiểm của sự bất tuân (I Các Vua 11:9-10). Đức Chúa Trời phán với Salômôn rằng sự bất tuân cố ý của ông sẽ khiến ông trả giá phần lớn vương quốc của mình. Vì cớ David, Đức Chúa Trời sẽ không đưa ra sự phán xét giáng trên nhà của Salômôn cho đến sau khi ông qua đời. Một chi phái sẽ được để lại cho con trai Salômôn cai trị, nhưng mười bộ lạc kia sẽ chạy theo người khác (11:11-13).
Đức Chúa Trời đã bày ra những hậu quả nhất định trong suốt cuộc đời của Salômôn. Ngài làm dấy lên nhiều đối thủ chống lại Salômôn: Hađát người Êđôm (11:14-22); Rêxôn con trai Êligiađa (11:23-25), và Giêrôbôam, con trai của Nêbát, là người cuối cùng sẽ cai trị trên mười chi phái của Israel (11:26-40). Giêrôbôam được bảo đảm rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho Giêrôbôam một triều đại kéo dài, nếu ông chỉ tuân theo luật lệ và điều răn của Ngài. Vương quốc bị phân chia nầy sẽ không kéo dài mãi.
Sau đó, chúng ta đến với phần cuối của I Các Vua 11:21-43:

“Còn các điều khác về chuyện Sa-lô-môn, mọi việc người, sự khôn ngoan của người, thảy đều đã chép trong sách hành trạng của Sa-lô-môn. Sa-lô-môn ở Giê-ru-sa-lem cai trị trên cả Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm. Đoạn, Sa-lô-môn an giấc cùng các tổ phụ người, và được chôn trong thành Đa-vít, cha người. Rô-bô-am, con trai người, cai trị thế cho người” (I Các Vua 11:41-43).
Phần kết luận

Câu chuyện nói tới đời sống của Salômôn chứa nhiều bài học dành cho chúng ta. Trước tiên, câu chuyện ấy có một số bài học quan trọng cho chúng ta về chức năng lãnh đạo. Tôi nhìn thấy trong hai chương đầu tiên của I Các Vua một sự miễn cưỡng nơi phần của David, ông không muốn bước sang một bên và để cho người khác thế chỗ của ông. David đã từng là một lãnh tụ vĩ đại, nhưng rồi có một thời gian khi ông không còn có thể tiếp tục lèo lái vương quốc nữa. Ông hoạt động với sức lực giảm sút. Dường như ông không biết gì về điều đang diễn ra trong vương quốc của mình. Chắc chắn ông không nhận ra mưu chước của Ađônigia muốn chiếm ngôi. Có một thời điểm khi các nhà lãnh đạo nên lãnh đạo bằng cách bước qua một bên, trước khi những người khác muốn họ lãnh đạo và trước khi ai đó sẽ xuất hiện rồi buộc họ phải ra đi. Ấy chẳng phải là Salômôn không thích hợp với phần việc này; mà chính David đã không chịu bước sang một bên
Ađônigia cũng có thể dạy cho chúng ta một bài học về quyền lãnh đạo. Có những người ngày hôm nay, giống như Ađônigia, những người đang quá háo hức muốn "nắm quyền", họ nắm lấy các vị trí của quyền lực và danh tiếng. Ađônigia sẽ không là hạng nhà vua-tôi tớ đâu, ông sẽ là một bạo chúa. Trải qua nhiều năm tháng, tôi đã phục vụ trong nhà thờ, tôi đã để ý thấy thấy một số người đã quá háo hức muốn trở thành cấp lãnh đạo và cũng quá lèo lái để được đặt vào những địa vị của quyền lực. Dường như là có nhiều người (nếu không phải là hầu hết) các nhà lãnh đạo quan trọng của Israel là hạng người đã bắt đầu như hạng tôi tớ.
Thứ hai, đây là bài học khác cần phải tiếp thu về chức năng lãnh đạo từ phân đoạn Kinh thánh gốc của chúng ta. Người nào mà Đức Chúa Trời kêu gọi lãnh đạo cần phải giải quyết nhanh chóng và dứt khoát với những kẻ đánh giá thấp quyền quản trị của họ. Đối với tôi, dường như là David nên xử lý riêng với những người như Giôáp và Simêi, nhưng ít nhất ông đã có sự khôn ngoan để khuyên con mình xử lý với họ. Cấp lãnh đạo khôn ngoan xác định người nào là xấu và tìm cách loại bỏ họ ra khỏi bất kỳ vai trò lãnh đạo nào:

“Hãy đuổi kẻ nhạo báng ra, thì sự cãi lẫy cũng sẽ đi; Điều tranh cạnh và sự sỉ nhục sẽ hết” (Châm ngôn 22:10).
“Vua ngồi trên ngôi xét đoán, Lấy mặt mình đánh tan các điều ác” (
Châm ngôn 20:8).
“Vua khôn ngoan làm tan kẻ ác, Và khiến bánh xe lăn cán chúng nó” (
Châm ngôn 20:26).
“Hãy trừ kẻ ác khỏi trước mặt vua, Thì ngôi người sẽ nhờ công bình được lập bền vững” (
Châm ngôn 25:5).

Một người không thể đọc câu chuyện nói tới Salômôn mà không đưa ra câu hỏi: "Làm thế nào một người rất khôn ngoan lại biến thành một tên ngốc cho được?" Câu trả lời cho thắc mắc của chúng ta có thể đến từ chính mình Salômôn trong Sách Truyền đạo. Nhưng từ bây giờ, cho phép tôi đề nghị rằng chìa khóa có thể tìm được trong sự tương phản giữa Salômôn và David, cha của ông.
David được cho là đã viết 73 Thi thiên – gần một nửa trong số đó. Trong 1005 bài ca của Salômôn, chỉ có 1 (hoặc ít nhất 2 bài) trong số đó được "xuất bản" trong Sách Thi thiên.
Sự khôn ngoan của Salômôn, ở cấp độ nầy hay cấp độ kia, là sự khôn ngoan xử lý với các vấn đề thuộc thế tục. Đây là những vấn đề quan trọng -- xây dựng, thực vật học, sinh học, quản trị, công lý -- nhưng chúng ta không thấy sự khôn ngoan của ông tập trung vào Lời thành văn của Đức Chúa Trời, là luật pháp Môise. Một người sẽ nghĩ rằng sự khôn ngoan của ông có thể được cung ứng cho khi xem xét Luật pháp. Thi thiên 119 nói rõ ràng rằng có một sự giàu có tuyệt vời về lẽ thật được tìm thấy ở đây, nhưng Salômôn dường như không dành nhiều thời gian ở đây như ông đã dành nhiều thời gian ở những nơi khác.
David đã tìm cách để nhìn biết và thờ phượng Đức Chúa Trời; Salômôn thì tìm cách nhìn biết nhiều về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời.
David là một người "vừa lòng Đức Chúa Trời"; Salômôn chưa bao giờ được nói về mặt thuộc linh như thế.
David là một tôi tớ, ông đã bị chối bỏ (với một mức độ nào đó) bởi các anh mình. Ông đã học tập để hầu việc Đức Chúa Trời cách trung tín, theo cách thức của hạng tôi tớ. Salômôn dường như đã chào đời trong hoàng gia và địa vị. Ông không hề là một cậu bé chăn cừu, bảo vệ bầy chiên của mình chống lại những con thú hoang dã.
David đã chịu khổ nhiều suốt cuộc đời của ông; còn Salômôn thì chẳng chịu khổ gì cả.
David đã tham chiến nhiều trận đánh; Salômôn là một nhân vật của hòa bình. Ông không nổ lực để giành lấy phần đất còn lại của người Canaan.
Chính David mới là nhân vật trở thành tiêu chuẩn bởi đó tất cả các vị vua tới sau ở Israel bị đánh giá, ấy chẳng phải là Salômôn, mặc dù vương quốc của ông lớn lao hơn vương quốc của David theo các tiêu chuẩn ngoại tại.
Đặc biệt tôi thấy rắc rối bởi sự sụp đổ của David và Salômôn. Ít nhất là David về mặt thuộc linh đã phục hồi từ sự sa ngã của mình, là điều mà Salômôn không hề có trong bản tường trình của Kinh thánh. Những thất bại của hai nhân vật lỗi lạc sẽ góp phần như một lời cảnh báo cho mỗi một người chúng ta. Cả hai nhân vật nầy đều để cho những đam mê nhục dục của mình thống trị đời sống của họ với những hậu quả gây tàn phá. Cả hai người, theo ý ​​của tôi, đều được thúc đẩy bởi cái tôi của họ, cũng như kích thích tố của họ. David đã trở nên tự hào và kiêu căng trong vai trò một nhà lãnh đạo quân sự. Ông đã ở lại cung điện khi ông đáng phải có mặt với binh sĩ chiến đấu với kẻ thù. Ông lạm dụng địa vị của mình trong vai trò tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang của Israel để giết Uri, một trong những tôi tớ trung thành của mình.
Theo ý ​​của tôi, thì đam mê nhục dục của Salômôn cũng được nung nấu bởi cái tôi của ông nữa. Ông lắng nghe lời nịnh hót của hạng phụ nữ như Nữ hoàng Sêba, và ông thích những gì ông đã nghe. Ông đã không tuân theo Đức Chúa Trời bằng cách tham gia vào quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, ông kết hôn với bất kỳ người phụ nữ nào ông muốn. Điều này cũng là một sự vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời cho các vị vua của Israel, như đã thấy có ở Phục truyền luật lệ ký 17. Tôi e rằng hầu hết các cuộc hôn nhân của Salômôn không phải là kết quả của niềm đam mê nhục dục, mà là một phương tiện thực tiễn cho việc mở rộng quyền lực, và mối liên minh của ông với các quốc gia khác. Mặc dù vậy, chính những người vợ của ông đã xây lòng ông ra khỏi Chúa đến một điểm ông bắt đầu thờ lạy các tà thần ngoại bang.
Có một sự khác biệt quan trọng giữa David và Salômôn. David có một tấm lòng dành cho Đức Chúa Trời. Ông trở thành tiêu chuẩn mà bởi đó tất cả các vị vua tới sau sẽ bị đánh giá. Salômôn thì có mối quan hệ khôn ngoan với Đức Chúa Trời. Ông đã gắn bó nhiều hơn, triết lý nhiều hơn trong mối quan hệ của ông với Đức Chúa Trời. Đó là một "câu chuyện đức tin rất cao" thay vì là mối quan hệ mật thiết, hàng ngày, đầy tình cảm với Đức Chúa Trời. Khi tôi quan sát sự thăng trầm của các học giả Kinh Thánh, hai nguyên nhân chính là vô luân về tình dục và duy trí -- một sự mê đắm với năng lực trí tuệ của một người.
Kinh Thánh có một số câu nói khôn ngoan cho hết thảy chúng ta, những câu nói minh họa cuộc đời của Salômôn:

“Luận đến của cúng các thần tượng thì chúng ta biết mình đều có sự hay biết cả. Song sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt” (I Côrinhtô 8:1, phần nhấn mạnh là của tôi).

Tôi e rằng nhiều người trong chúng ta (kể cả tôi) có nhiều chất "Salômôn" trong mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời hơn là chất "David". Thật là tuyệt vời cho chúng ta khi theo đuổi chân lý (kinh thánh hoặc tự nhiên), nhưng nó không thể thay thế cho thứ đức tin như con trẻ đơn sơ nơi Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy suy nghĩ nghiêm túc đối với những điều nào là dễ mắc phải cả nơi David và Salômôn. Chúng ta hãy tiếp thu từ kinh nghiệm của họ để chúng ta không cần phải học hỏi từ chính kinh nghiệm của chúng ta.Sau cùng, khi tôi kết thúc bài học này, tôi muốn chuyển các nhân vật nầy cùng các thất bại của họ sang Đấng Cứu Thế hoàn hảo, là Đức Chúa Jêsus Christ. Hãy xem xét sự thực cho thấy hai vị vua lỗi lạc nhất của Israel đã sa ngã, họ sa ngã khi thiếu mất tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đề ra cho Đấng Mê-si. Nếu những lời hứa của Đức Chúa Trời cho David -- hứa hẹn về một vương quốc vĩnh cửu thông qua dòng dõi của David – cần phải được ứng nghiệm, nó sẽ không được thành bởi những nhân vật nầy, cho dù họ lỗi lạc dường nào. Israel muốn có một vị vua, và họ đã có một vị vua, rồi đến vua khác, khác nữa .... Nhà vua duy nhứt từng làm ứng nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời và hy vọng của chúng ta chính là chính mình Đức Chúa Trời. Những lời hứa của Đức Chúa Trời với David đã được ứng nghiệm trong Thân Vị Đức Chúa Jêsus Christ.

“Thiên-sứ bèn nói rằng: Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jêsus. Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài. Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Gia-cốp, nước Ngài vô cùng” (Luca 1:30-33).

Thành tựu lớn lao nhất của Salômôn có thể là sự hoàn thành đền thờ. Bất cứ khi nào dân sự Đức Chúa Trời gặp khó khăn, họ tìm đến đền thờ và cầu nguyện, với sự tin tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ nghe và trả lời cho những lời cầu nguyện của họ. Hãy xem xét, trong một phút, chính trong những hoàn cảnh ấy đã giục giã người ta đến đền thờ mà cầu nguyện:
Khi bị cáo buộc về tội lỗi (8:21-32)
Khi bị một kẻ thù đánh bại (8:33-34)
Khi Đức Chúa Trời xét đoán xứ sở vì tội lỗi của họ chống nghịch Ngài (8:35-40)
Khi người ngoại bang muốn xây sang Đức Chúa Trời (8:41-43)
Khi dân Do Thái tham chiến (8:44-45)
Khi Đức Chúa Trời ban cho Israel tội lỗi thắng hơn kẻ thù mình, và họ cần sự tha thứ và sự giải cứu (8:46-51)

Chính Chúa Jêsus, Chúa chúng ta là "đền thờ tối hậu":

“Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở [ngự] giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha” (Giăng 1:14).
“Các người Giu-đa cất tiếng thưa cùng Ngài rằng: Thầy làm như vậy thì cho chúng tôi xem thấy phép lạ chi? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy phá đền thờ nầy đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại! Người Giu-đa lại nói: Người ta xây đền thờ nầy mất bốn mươi sáu năm, mà thầy thì sẽ dựng lại trong ba ngày! Nhưng Ngài nói về đền thờ của thân thể mình. Vậy, sau khi Ngài được từ kẻ chết sống lại rồi, môn đồ gẫm Ngài có nói lời đó, thì tin Kinh Thánh và lời Đức Chúa Jêsus đã phán” (
Giăng 2:18-22, phần nhấn mạnh là của tôi).

Chúa Jêsus đã nói rõ với "người đàn bà Samari bên giếng" rằng sự thờ lạy Đức Chúa Trời không còn là thắc mắc "đúng chỗ" nữa, mà là vấn đề thờ phượng đúng người kìa, là chính mình Chúa Jêsus:

“Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem. Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy. Người đàn bà thưa: Tôi biết rằng Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó” (Giăng 4:21-26).

Bạn có phạm tội không? Hãy xây sang Chúa Jêsus. Bạn có vượt qua được khó khăn và thử nghiệm trong cuộc sống của bạn không? Hãy xây sang Chúa Jêsus. Một mình Ngài sẽ lắng nghe và trả lời cho lời cầu nguyện xin được cứu của bạn. Ngài là biểu hiện có thể nhìn thấy được bằng mắt thường sự hiện diện của Đức Chúa Trời giữa vòng loài người. Ngài đã sống một cuộc đời vô tội và chết một cái chết hy sinh, qua đó Ngài đã trả giá cho án phạt của tội lỗi. Ngài chịu chết, bị chôn, và đã sống lại từ kẻ chết và hiện nay ngự bên hữu của Đức Chúa Cha. Ngài là Đấng chúng ta phải thờ phượng và phục vụ. Con người, bất luận lỗi lạc dường nào, sẽ thất bại; còn Chúa Jêsus thì không bao giờ thất bại.