Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2011

Sự sụp đổ của David


Sự sụp đổ của David

Mục sư Bob Deffinbaugh

II Samuên 11-24

Phần giới thiệu:

Một vài năm trước đây, tôi đọc một câu chuyện trên báo chí mà tôi thấy thú vị. Hai vợ chồng kia quyết định lái xe đi xem phim. Người chồng có sáng kiến rất hay khi cố gắng làm giảm giá vé vào cửa. Ngay ở bên ngoài lối vào nhà hát, họ dừng xe và người chồng chui vào chiếc vali. Người vợ khi ấy trả tiền vé vào cửa của mình, đậu xe ở bên trong, rồi quay trở lại mở cho chồng mình ra khỏi vali. Chỉ có một vấn đề - ông để mấy cái chìa khóa vali trong túi quần của mình! Sau khi nỗ lực của họ không thành công, người vợ đã phải kêu xin người ta giúp đỡ. Tôi không biết có bao nhiêu người cứu hộ chạy đến, nhưng khi thời gian qua đi ai nấy đều nhận biết họ đã cố gắng để lừa nhà hát về giá vé. Những người cứu hộ buộc phải mở vali ra, điều nầy đã đem lại một sự thiệt hại. Khi mọi chuyện qua rồi, người chồng cũng như người vợ đã không xem phim, họ gánh chịu sự sỉ nhục đáng kể, và họ phải trả tiền cho việc sửa chữa chiếc vali của họ. Câu chuyện này nhắc cho tôi nhớ tới câu chuyện nói tới tội lỗi của David với Bátsêba trong phân đoạn Kinh thánh của chúng ta. Đối với David, mọi hành động của ông vào cái đêm định mệnh mùa xuân ấy dường như là bình thường, chỉ là một phút ngừng nghỉ trong một cuộc sống đạo đức khác mà thôi. Tuy nhiên, mọi hậu quả đã tàn phá, không chỉ cho David, hoặc cho Uri, mà còn cho gia đình của David và toàn bộ quốc gia nữa. Cả nước đã trả giá cao cho tình trạng phi luân của David. Khi chúng ta nghiên cứu Cựu Ước (hoặc thậm chí Tân ước), chúng ta phải vượt qua những suy nghĩ cho rằng những sự kiện này trong Kinh Thánh là "xa lắc xa lơ" rồi – những sự kiện rất xa xưa đối với chúng ta, không chỉ trong không gian và thời gian, mà còn về sự xác đáng nữa. Tuy nhiên, đấy chẳng phải là trường hợp với phân đoạn Kinh thánh của chúng ta. Trong ánh sáng của những sự kiện gần đây trong nền chính trị Mỹ, vấn đề của chúng ta hầu như là ngược lại. Một người lạm dụng quyền lực chính trị của mình, nối theo sau bởi những cố gắng vô ích hầu bao che cho tội lỗi của ông ta, được cho là thông thường hôm nay. Các tường trình về những vụ việc như thế đã chi phối phần tin tức trong nhiều năm. Chúng ta rất quen với loại tội lỗi nầy đến nỗi chúng ta đã bớt nhạy cảm đối với nó. Chúng ta đã bị sốc và kinh hoàng, nhưng những vụ việc như thế này đã quá thông thường rồi. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta sẽ giúp chúng ta đưa ngược những vụ việc này vào nhận định đúng đắn của chúng và để nhìn xem tội lỗi giống như Đức Chúa Trời nhìn xem vậy. Khi chúng ta nghiên cứu những năm yếu kém và khó khăn nhất của cuộc đời David, hết thảy chúng ta phải ý thức sâu sắc rằng chúng ta có đủ khả năng để phạm tội mà David đã phạm, hoặc những điều nào giống như điều ác vậy. Có người đã dẫm lên những dấu chân của David. Nhiều người khác có thể đang ở trên bờ vực của việc làm nầy. Chúng ta hãy lắng nghe cho rõ lời lẽ của phân đoạn Kinh thánh gốc cùng sự giục giã và thuyết phục của Đức Thánh Linh, để chúng ta không cần phải học bài học của David thao cách khó nhọc mà ông đã học.

Một Người Như Bạn Đang Làm Gì ở Một Nơi Như Thế Này?

Những điều kiện thuận lợi cho sự sa ngã của David

“Khi ngươi cất một cái nhà mới, thì phải làm câu lơn nơi mái nhà, kẻo nếu người nào ở trên đó té xuống, ngươi gây cho nhà mình can đến huyết chăng” (Phục truyền luật lệ ký 22:8).

“Ví có một con bò báng nhằm một người đàn ông hay đàn bà phải chết đi, con bò sẽ bị ném đá chết, người ta không nên ăn thịt nó; còn người chủ bò sẽ được vô tội. Nhưng ngộ từ trước con bò có tật hay báng và chủ đã bị mắng vốn mà không cầm giữ, nếu bò nầy còn giết một người đàn ông hay đàn bà, thì nó sẽ bị ném đá, và chủ sẽ bị xử tử nữa” (Xuất Êdíptô ký 21:28-29).

Có những điều kiện nhất định khiến cho chúng ta gặp phải nhiều nan đề trong tương lai. Nếu một người cất nhà với mái nhà được sử dụng như chúng ta thường sử dụng giống như một ban công (rất phổ thông trong thế giới của Kinh thánh - xem Công Vụ các Sứ Đồ 10…), thế rồi lại không có thanh chắn bảo vệ quanh chu vi mái nhà sẽ làm ai đó té xuống là việc quá dễ dàng, thì người chủ nhà sẽ phải chịu trách nhiệm. Nếu một người làm chủ con bò mà trước đây đã báng người ta, ông ta phạm tội giết người nếu con bò đó không có báng ai nữa. Nếu bạn không cột chặt con mình vào dây an toàn, bạn sẽ chịu trách nhiệm đối với bất kỳ thương tích của đứa con ấy nếu xảy ra tai nạn. Chúng ta cũng có thể nhận vé phạt vì không siết chặt dây an toàn của chính mình. Bỏ qua các vấn đề quan trọng có thể dẫn đến rắc rối nghiêm trọng, cho chúng ta và cho nhiều người khác.

Khi tôi đọc câu chuyện nói tới sự sa ngã của David ở II Samuên 11, tôi được nhắc nhớ tới những lời lẽ nầy trong Sách Châm ngôn:

“Vì tại cửa sổ nhà ta, ta nhìn ngang qua song mặt võng ta, bèn thấy trong bọn kẻ ngu dốt, giữa vòng người thiếu niên, có một gã trai trẻ không trí hiểu, Đi qua ngoài đường gần góc nhà đàn bà ấy; Người bắt đi đường dẫn đến nhà nàng, hoặc trong lúc chạng vạng khi rốt ngày, hoặc giữa ban đêm khi tối tăm mù mịt. Kìa, người đàn bà ấy đi ra rước hắn, trang điểm như con bợm, lòng đầy mưu kế, nàng vốn nói om sòm, không thìn nết, hai chân nàng chẳng ở trong nhà, khi ở ngoài đường, lúc nơi phố chợ, rình rập tại các hẻm góc. Nàng nắm ôm hôn kẻ trai trẻ ấy, mặt chai mày đá, nói cùng chàng rằng: "Tôi có của lễ thù ân tại nhà tôi; Ngày nay tôi đã trả xong các lời khấn nguyện tôi. Bởi cớ đó, tôi ra đón anh, đặng tìm thấy mặt anh, và tôi đã tìm được. Tôi có trải trên giường tôi những mền, bằng chỉ Ê-díp-tô đủ sắc, lấy một dược, lư hội, và quế bì, mà xông thơm chỗ nằm tôi. Hãy đến, chúng ta sẽ thân ái mê mệt cho đến sáng, Vui sướng nhau về sự luyến ái. Vì chồng tôi không có ở nhà, người trẩy đi xa xuôi lắm, đem túi bạc theo tay người, đến rằm mới trở về nhà". Nàng dùng lắm lời êm dịu quyến dụ hắn, làm hắn sa ngã vì lời dua nịnh của môi miệng mình. Hắn liền đi theo nàng, như một con bò đến lò cạo, như kẻ ngu dại bị cùm dẫn đi chịu hình phạt, Cho đến khi mũi tên xoi ngang qua gan nó; như con chim bay sa vào lưới, mà không biết rằng nó rập sự sống mình” (Châm ngôn 7:6-23).

Cho phép tôi bắt đầu bằng cách nói rằng tôi không có cách so sánh nào giữa kỵ nữ này với Bátsêba, hầu ám chỉ rằng Bátsêba không cứ cách nào đó đã quyến dụ David vào trong tội lỗi giống như người nữ này quyến dụ được chàng thanh niên kia vào trong tội lỗi. Châm ngôn 7:22-23 mô tả các hành động của chàng thanh niên như đột ngột và bốc đồng, và họ thật như vậy đấy. Nhưng sự bốc đồng đột ngột của chàng ta vào trong tội lỗi đến tại phần cuối của một chuỗi các sự lựa chọn sai lầm về phần của mình. Chàng thanh niên đã đi ra ngoài lúc ban đêm, lang thang trên đường phố. Dường như chàng ta cứ nán lại ở một nơi mà lẽ ra chàng không nên có mặt ở đó. Người nữ tìm gặp chàng trai nầy và thủ thỉ với chàng ta những điều mà cô ấy biết chàng ta rất muốn nghe. Chàng ta lắng nghe những lời lẽ quyến rũ của nàng và rồi đột nhiên quyết định dự phần vào sự hiến dâng của nàng.

Mục đích của các câu châm ngôn nầy là dạy cho lớp người trẻ phải cẩn thận đối với những phụ nữ này và về các trường hợp như vậy. Phần châm ngôn nầy có thể được tóm lại như sau: "Đừng đi đến đó" Khi tôi đọc câu chuyện nói tới sự sa ngã của David, tôi nhìn thấy sự bốc đồng đột ngột đối với tội lỗi như là kết quả của một chuỗi thất bại nơi phần của David. Cho phép tôi lưu ý ngắn gọn một vài lỗi lầm rất nghiêm trọng nơi phần của David.Thứ nhứt, David đã chọn không tham gia vào trận đánh của Israel với dân Ammôn. II Samuên 11 bắt đầu với lời lẽ này:

“Qua năm mới, khi các vua thường ra tranh chiến, Đa-vít sai Giô-áp cùng các tôi tớ mình và cả đạo binh Y-sơ-ra-ên đánh giặc; chúng cướp phá xứ dân Am-môn và vây thành Ráp-ba. Nhưng vua Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem” (II Samuên 11:1, phần nhấn mạnh là của tôi).

David cần phải có mặt trên chiến trường chớ không phải trong phòng ngủ.

Thứ hai, trong thời kỳ chiến tranh, một người lính không lao mình vào sự an nhàn bình thường của cuộc sống, bao gồm cả quan hệ tình dục với vợ mình (chứ chưa nói đến vợ của ai khác). Khi David và người của ông trốn tránh Sau-lơ đến gặp thầy tế lễ Ahimêléc tại xứ Nốp, ông đã hỏi xin bánh từ Ahimêléc. Hãy để ý cẩn thận lời lẽ của thầy tế lễ và đáp ứng của David:

“Thầy tế lễ đáp cùng Đa-vít rằng: Trong tay ta không có bánh thường, chỉ có bánh thánh mà thôi; miễn là các tôi tớ ông không có đến gần đàn bà. Đa-vít đáp cùng thầy tế lễ rằng: Từ khi ta đi ra vài ba ngày rồi, chúng tôi không có lại gần một người nữ nào hết. Các bạn tôi cũng thanh sạch; còn nếu công việc tôi không thánh, thì ngày nay há chẳng nhờ kẻ làm thánh nó mà được thánh sao?” (I Samuên 21:4-5).

Lời lẽ của David đáp với Ahimêléc phản ảnh nhận thức của ông về sự thực những người nào ra trận không có việc "làm tình". Bi kịch nằm ở chỗ khi David thôi không còn hành xử như một chiến binh nữa, ông cũng tìm cách thuyết phục Uri làm như vậy. David phải cảm nhận cái nọc trong phản ứng của Nathan:

“U-ri đến, Đa-vít hỏi thăm về Giô-áp và đạo binh có bình an chăng, cùng chiến trận ra thể nào. Đoạn, vua nói cùng U-ri rằng: Hãy đi xuống nhà ngươi và rửa chân đi. Vậy, U-ri đi ra khỏi đền vua, có người đem theo người một của ăn nhà vua. Nhưng U-ri không về nhà mình, ngủ tại cửa đền vua cùng các tôi tớ vua. Người ta thuật điều đó cho Đa-vít và nói rằng: U-ri không có đi xuống nhà người. Đa-vít hỏi U-ri rằng: Chớ thì ngươi chẳng đi đường trở về sao? Cớ sao không đi xuống nhà ngươi? U-ri thưa cùng Đa-vít rằng: Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Giô-áp, là chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đang hạ trại nơi đồng trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng biết làm một sự như vậy!” (II Samuên 11:7-11, phần nhấn mạnh là của tôi)

Thứ ba, không bao lâu sau đó, Giô-áp quở nhẹ David vì không có mặt và không tham gia trận đánh của Israel với dân Ammôn:

“Giô-áp đánh Ráp-ba của dân Am-môn, và hãm lấy đế đô. Người sai sứ giả đến cùng Đa-vít mà nói rằng: Tôi có đánh Ráp-ba và hãm lấy thành ở mạn dưới rồi. Bây giờ, vua hãy nhóm hiệp chiến sĩ còn lại, đến đóng trước thành và chiếm lấy nó, kẻo tôi hãm lấy nó thì công đó về tôi chăng. Vậy, vua Đa-vít nhóm hiệp cả dân sự, kéo đến đánh Ráp-ba, vây và hãm lấy nó. Người lột cái mão triều thiên của vua dân Am-môn đội trên đầu; mão đó cân nặng một ta-lâng vàng, có trang sức những bửu thạch; Đa-vít đặt nó ở trên đầu mình. Người cũng đoạt lấy rất nhiều của cải thành mà đem đi” (II Samuên 12:26-30).

Đây chắc chắn là một chiến thắng rỗng cho David, nhưng ít nhất sau cùng ông đã xuất hiện tại Rápba. Tất cả điều này có ý nói rằng trong khi tội lỗi của David dường như là bất ngờ, và nhất định là không thích ứng, đó là việc kết quả từ chỗ David bỏ bê trách nhiệm và lạm dụng quyền lực của mình. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi chúng ta xem xét chuỗi các sự kiện nơi sự sụp đổ của ông.

Sự sa ngã của David

David chổi dậy từ giường của mình vào buổi tối và đi dạo trên mái cung điện mình. Có phải điều này có ý nói ông đã ngủ cả ngày ở trên giường? Chắc chắn ông đã không ở nhà để nắm bắt công việc của mình ở đó. Mái cung điện của David sẽ là "sân thượng chung cư" của thời buổi ấy. Không nghi ngờ chi nữa, cung điện có một đài quan sát nhìn khắp cả thành Jerusalem, và đài quan sát sẽ rất tốt khi ở trên mái cung điện. Khi ông quan sát, ông trông thấy một phụ nữ đang tắm. Điều này không nhất thiết là khác thường đâu. Tôi đã thấy nhiều người nghèo, họ đứng tắm trên các đường phố của Ấn Độ. (Trong các trường hợp như vậy, họ hoàn toàn chẳng mặc quần áo chi hết). Người nghèo không có đặc ân hoàn toàn riêng tư.

Khi David nhìn thấy người phụ nữ này, ông không phải là một người quý phái nữa. Ông không nhìn đi chỗ khác, thay vì thế đôi mắt của ông dán trên nàng giống như ông đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng vậy. Vào thời điểm nầy, ông chẳng tốt gì hơn một gã tò mò tọc mạch. Tôi phải tạm dừng ở đây trong giây lát để nói rằng những gì David đã làm là không khả thi đối với hầu hết đàn ông, bởi vì họ không sống trong một cung điện cho phép họ nhìn xuống thế giới ở dưới. Nhưng chính tội lỗi ấy càng trở nên dễ dàng hơn cho nam và nữ giới ngày nay. Tôi đang nói về tình trạng khiêu dâm. Bằng những cú nhấp chuột, chúng ta có thể xem thấy tất cả sự trần truồng và điên đảo mà chúng ta muốn có trên Internet. Chỉ bởi bấm một nút nào đó trên bộ điều khiển từ xa, chúng ta có thể nhìn thấy ảnh khoả thân nhiều hơn David nhìn thấy trên màn hình của TV của chúng ta trong khi xem một chương trình trên mạng. Vô số đời sống đã bị hủy diệt bằng cách nhìn vào những thứ mà lẽ ra chúng ta không nên nhìn.

Nếu như David không phải là vua của Israel, vấn đề này sẽ chẳng đi xa hơn đâu. Nhưng ông là một người có quyền lực nhất ở Israel. Những điều David muốn, ông có thể nhận được, và chẳng có một lời phản đối nào hết. Trước tiên, David sai tôi tớ mình hỏi thăm về danh tính của người nữ nầy. Khi họ báo cho ông biết rằng cô ấy đã có chồng, đây là một trạm kiểm soát khác sẽ kết thúc cuộc đeo đuổi của ông. Nhưng đấy chẳng phải là một rào cản cho David. Ông đã sai người đến đem người nữ này về cho ông, và ông đã ngủ với nàng.

Theo ý ​​của tôi, thì tác giả chẳng đưa ra nổ lực nào để gán bất kỳ lỗi lầm nào cho Bátsêba cả. Kinh thánh không nói cho chúng ta biết nàng đã hành động theo cách khiêu khích. Từng bước đã được thực hiện theo sáng kiến ​​của David. Lời quở trách của Nathan đặt toàn bộ sự đổ thừa lên David, không phải lên Bátsêba. Nàng chỉ là một phụ nữ trẻ, vợ của một người nước ngoài; David là nhà vua. Khi ông triệu tập ai đó đến, họ phải đến. Đây không phải là những lôi cuốn của David đã mang Bátsêba đến. Hai người chưa từng gặp nhau trước đêm đó. Chính quyền lực của David đã làm cho sự kiện này diễn ra.

Khi Bátsêba hay được mình có thai, nàng đã gửi lời đến David. Giờ đây, David đến với một trạm kiểm soát khác trong cuộc đời của mình. Ông có thể gánh lấy tội lỗi của mình và chấp nhận mọi hậu quả, hoặc ông nổ lực để che đậy. David đã chọn phần thứ nhì. Một lần nữa David đã lạm dụng quyền lực của mình. Ông triệu Uri từ chiến trường về với lý do nhận được một bản báo cáo viết tay về cách thức chiến cuộc đang diễn ra. Kế hoạch của ông là đưa Uri về nhà, giả định rằng Uri sẽ làm những gì bản thân ông đã làm - ngủ với Bátsêba. Khi ấy, thì sự việc sẽ ra thể nầy: đứa trẻ mà David làm cha lại là con của Uri.

Sự thể cũng sẽ tác động như thế, nếu Uri đã làm hành xử giống như David đã hành xử vậy. Thật là cám dỗ dường bao cho Uri làm theo như David đề nghị - đi đến ngôi nhà của mình và qua đêm với vợ của mình. Uri là một lính chiến, nhưng ông còn xuất sắc hơn thế nữa; Uri là một anh hùng quân đội (xem II Samuên 23:39). Ông là một người hiểu rõ trách nhiệm, và ông sẽ không quên nhiệm vụ của mình, ngay cả ở với vợ mình và ngay cả sau khi David đã phục cho ông say mèm (II Samuên 11:13).

Kế hoạch của David đưa Uri về ngủ với vợ mình không thành công. Uri sẽ nhìn ra đứa con không phải là của ông. David phải đối mặt với quyết định khác. Liệu ông có thú nhận tội lỗi của mình vào lúc sau cùng, hoặc ông sẽ chuyển sang cấp độ tội ác khác chăng? Thật buồn khi phải nói, David đã chọn không xưng tội. Chính vào thời điểm này David đã bước vào chỗ hội nhập với Giô-áp. David đã coi Giô-áp là một tay giết người:

“Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa bình như trong cơn chiến trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến trận dính vào đai nó thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chân” (I Các Vua 2:5).

Tội lỗi tạo nên những người bạn đồng sàng thật là lạ lùng. Mối liên minh nầy giữa David và Giô-áp sẽ không bao giờ xảy ra nếu như David, trong giây lát, trở nên giống như Giô-áp, một con người có tánh bạo lực mà David đã xem khinh.

Khi nhận ta Uri quá ngay thẳng không chịu ngủ với vợ mình đang khi có chiến tranh, David liền thay đổi kế hoạch của mình. David gửi lịnh lạc Giô-áp, đặt giấy chứng tử của Uri vào trong tay người chiến binh dũng cảm nầy. Người lính nầy đáng tin cậy để mang các mạng lịnh ấy đi và thậm chí không thèm nhìn vào chúng nữa. Đúng Uri là một người không thể tin nổi!

Trong khi Uri đang ở tại vị trí tốt nhứt của mình, David giờ đây lại ở vào một chỗ thấp kém nhất. Khi bạn thôi không suy nghĩ về việc ấy nữa, David bây giờ lại rất giống với Saulơ. Uri là một người tôi tớ trung thành của David, người không làm hại nhà vua, nhưng nhà vua (David) lại tìm kiếm mạng sống của người qua cùng phương tiện mà Saulơ đã làm khi ông tìm cách giết David:

“Sau-lơ nói cùng Đa-vít rằng: Nầy Mê-ráp, con gái cả ta; ta sẽ gả nó cho ngươi làm vợ. Chỉ phải giúp ta cách mạnh bạo và đánh giặc cho Đức Giê-hô-va. Vả, Sau-lơ nói thầm rằng: Tay ta chớ nên hành hại hắn, nhưng thà tay của dân Phi-li-tin còn hơn” (I Samuên 18:17, phần nhấn mạnh là của tôi).

Mạng lịnh của David cho thấy hành động của ông thậm chí còn ác hơn lịnh lạc của Saulơ trong phân đoạn trên. Saulơ hy vọng rằng David sẽ chết đi trong chiến tranh, ông đã không ra lệnh để David bị đặt trong chỗ nóng của trận chiến và rồi cất bỏ mọi yễm trợ cho ông. Kế hoạch của Saulơ chỉ mong có cái chết của David mà thôi. Kế hoạch của David mang lại cái chết của Uri với tổn phí nhiều sinh mạng vô tội khác. David đã sẵn sàng gánh chịu mất mát nơi tay của kẻ thù để được thoát khỏi Uri. Kế hoạch của David cung ứng cho kẻ thù lợi thế và chiến thắng nhất thời. Đúng là một sự khác xa mà David đã có vào thời điểm này một khi ông từng là người chiến binh dũng cảm.

Giô-áp thực hiện chính xác mạng lịnh của David, mang lại cái chết của Uri cùng với các chiến binh Do Thái khác nữa. Khi báo cáo của Giôáp về cái chết của Uri đến với David, phản ứng của ông vô cùng tàn nhẫn:

“Đa-vít đáp cùng sứ giả rằng: Ngươi hãy nói cùng Giô-áp: Chớ lấy làm cực lòng quá về điều đó; gươm, khi giết kẻ nầy, khi giết kẻ khác. Hãy rán sức hãm thành và hủy diệt nó đi. Còn ngươi hãy giục người vững lòng bền chí” (II Samuên 11:25).

Đây đúng là một sự tương phản nơi phản ứng của David trước báo cáo về sự thất bại của người Do Thái và cái chết của Sau-lơ cùng các con trai người (xem II Samuên 1). Đúng là một sự tương phản nơi phản ứng của David trước cái chết của Ápne (II Samuên 3:28-39). Khi David hay rằng Uri đã chết, sự thể giống như David đã nói: "Phải, ngươi thắng một ít, và ngươi mất một ít".

Tôi đã lấy làm lạ không biết Bátsêba có bất kỳ ý tưởng nào (ít nhất là ban đầu) là chính David người đã ban lệnh để Uri bị giết hay không!?! Tôi e rằng David đã từng nói với nàng, tuy nhiên, điều đó đã trở thành một vấn đề của sự hiểu biết chung nhất. Kế hoạch của David là Uri phải chết và sau đó thực hiện những việc làm hào hiệp để đưa vợ ông ta vào hậu cung của mình. Kế hoạch của ông là phải hoàn thành cái chết của Uri chỉ có một người khác biết việc ấy thôi – đó là Giôáp. Điều đó đã chẳng bật mí như David đã hy vọng.

“Chẳng có sự gì giấu mà không phải lộ ra, chẳng có sự gì kín mà không được biết. Vậy nên mọi điều mà các ngươi đã nói nơi tối, sẽ nghe ra nơi sáng; mọi điều mà các ngươi đã nói vào lỗ tai trong buồng kín, sẽ giảng ra trên mái nhà” (Luca 12:2-3; cũng xem Dân số ký 32:23; I Timôthê 5:24-25).

Đối diện và xưng tội

Khi tôi còn là một sinh viên trong thần học viện, một trong những môn học mà tôi được yêu cầu phải nắm chắc là môn nghệ thuật về khẩu tài (phải rao giảng như thế nào). Tôi bị thuyết phục về tầm quan trọng của các ngôn ngữ gốc và thần học, nhưng tôi đã có ít thời gian cho các môn học về phương pháp. Nếu tôi là Nathan và tôi sẽ phải đối diện với David vì tội lỗi của ông ấy, tôi sẽ lấy hết khẩu tài của mình như có thể được. Tất nhiên, vấn đề là những gì bạn nói phải là sự thực, nhưng cách bạn nói ra sự thực cũng là một vấn đề nữa.

Nathan đã đối diện David với sự thực rất cẩn thận. Tôi không biết Nathan đã chuẩn bị sứ điệp nầy bao lâu, nhưng cách tiếp cận của ông phải là bậc thầy, và điều đó làm hoàn thành nhiệm vụ của ông. Ông đã đối diện với tội lỗi của David, đưa ông ấy đến với sự ăn năn, mà vẫn còn sống trong quá trình ấy. David đã lớn lên như một người chăn chiên. Tôi nghĩ ông ấy yêu thương bầy chiên. Khi ông giữ bầy của cha mình, David rất có thể đã có một con chiên con rất cưng. Nathan nói với David về một người nghèo kia chỉ có một con chiên, một con chiên con rất cưng. Con chiên đó giống như đứa con gái của người ấy vậy, giống như một thành viên trong gia đình. Người nầy sẽ ẳm con chiên trong tay và cho nó ăn tại bàn. Còn người giàu có kia, ông ta có một bầy chiên lớn có khách đến viếng và ở lại ăn tối. Thay vì giết một con chiên trong bầy của mình, người giàu kia đã bắt con chiên cưng của người nghèo nọ, giết đi, rồi đãi khách của mình.

Nathan đã chọn lời lẽ rất hay, chưa nhắc đến sự thực là Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đâm thủng tim của David. David đã rất tức giận. Gã này phải chết! Có lẽ David đã nói rằng ông sẽ không khoanh tay mình trước gã nầy. Theo luật, người nầy phải bồi thường cho kẻ nghèo kia gấp bốn lần, nhưng sự bồi thường ấy sẽ không bao giờ thay thế được những gì ông ta đã bị mất.

Bấy giờ, Nathan đem sứ điệp của mình về nhà. Nhân vật phản diện thực sự là David. Ấy chẳng phải là một con chiên nhỏ bị cướp khỏi tay kẻ nghèo kia, mà là một người vợ trẻ, người bị tước khỏi tay của người chồng dưới uy quyền của David. Giống như người giàu trong câu chuyện có nhiều chiên, David đã có nhiều vợ. Giống như người giàu kia đã lấy đi những thứ không thuộc về mình, David đã lấy vợ của Uri. Nếu David cảm thấy kẻ trộm giàu kia đáng chết, David còn đáng chết nhiều lần hơn dường bao vì những gì ông đã làm đối với Uri?

Có một điều làm cho tôi bối rối về lời quở trách của Nathan. Tại sao lời quở trách ấy lại đến trễ như thế chứ? Tại sao Đức Chúa Trời không đối diện với David trước khi ông phạm tội với Bátsêba? Tại sao Đức Chúa Trời không khiển trách David trước khi ông giết Uri? Tại sao Đức Chúa Trời chờ đợi quá lâu mới hành động chứ? Tôi nghĩ chúng ta có một số gợi ý trong Kinh Thánh. Ở II Phierơ 3, chúng ta đọc:

“Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ nên quên rằng ở trước mặt Chúa một ngày như ngàn năm, ngàn năm như một ngày. Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (II Phierơ 3:8-9). Từ chỗ này chúng ta học biết rằng Đức Chúa Trời chậm đem sự phán xét đến giáng trên con người như là một biểu hiện của ân điển Ngài. Đức Chúa Trời trì hoãn sự phán xét (Ngài chịu đựng lâu dài) để cung ứng cho con người cơ hội ăn năn.

Chúng ta tìm thấy lý do tại Sáng thế ký 15:

“Đức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Phải biết rằng, dòng dõi ngươi sẽ ngụ trong một xứ chẳng thuộc về chúng nó, làm tôi mọi cho dân xứ đó và bị họ hà hiếp bốn trăm năm. Nhưng, ta sẽ đoán phạt dân mà dòng dõi ngươi sẽ làm tôi mọi đó; rồi khi ra khỏi xứ, thì sẽ được của cải rất nhiều. Còn ngươi sẽ bình yên về nơi tổ phụ, hưởng lộc già sung sướng, rồi qua đời. Đến đời thứ tư, dòng dõi ngươi sẽ trở lại đây, vì tội lỗi của dân A-mô-rít chưa được đầy dẫy” (Sáng thế ký 15:13-16, phần nhấn mạnh là của tôi).

Thay vì "cay đắng với tội lỗi mới hé nụ này", đôi khi Đức Chúa Trời trì hoãn sự phán xét để cho tội lỗi đạt tới chỗ nở rộ ra hết. Trong Châm ngôn, chúng tôi tìm thấy nhiều lời cảnh báo. Thanh niên hay thanh nữ ("hỡi con ta") được khuyến khích phải tránh né tội lỗi bằng cách truyền cho họ biết địa điểm mà con đường sai lầm sẽ dẫn tới. Thí dụ, trong Châm ngôn 7, Kinh thánh thuật lại cho chúng ta biết câu chuyện kể về một chàng thanh niên và người nữ gian dâm. Ở phần kết luận, chàng thanh niên được dạy dỗ:

“Vậy bây giờ, hỡi con, hãy nghe ta, Khá chăm chỉ về các lời của miệng ta. Lòng con chớ xây vào con đường đàn bà ấy. Chớ đi lạc trong các lối nàng; Vì nàng làm nhiều người bị thương tích sa ngã, và kẻ bị nàng giết thật rất nhiều thay. Nhà nàng là con đường của âm phủ, dẫn xuống các phòng của sự chết” (Châm ngôn 7:24-27, phần nhấn mạnh là của tôi).

Một số người trong chúng ta không tiếp thu nhiều sự việc theo cách dễ dàng - do được cảnh báo trước, thay vì thế, chúng ta phải tiếp thu theo phương thức cứng rắn. Chính ở những thời điểm nầy mà Đức Chúa Trời cho phép tội lỗi của chúng tôi tự tỏ bày ra với hình thái phát triển đầy đủ của nó. Khi ấy, chúng ta mới có thể nhìn thấy rõ chỗ mà bản thân mình bị tội lỗi dẫn tới. Đức Chúa Trời đã cho phép tội lỗi của David phát triển, không kiểm soát, cho đến khi những ham muốn không kềm chế được của ông mang lại sự chết của một vài người Do Thái cùng những hậu quả tàn phá đối với gia đình và đất nước của David. Không có gì là lạ lùng cả khi Kinh Thánh phán cùng chúng ta:

“Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rôma 6:23).

Tôi tin, còn có một lý do khác nữa, cho phần chậm trễ của Đức Chúa Trời trong việc sai Nathan đến đối diện với David. Ấy chẳng phải là Đức Chúa Trời chờ đợi để bắt đầu xử lý với David đâu. Đức Chúa Trời chờ đợi để sai Nathan đến đối diện với David cho tới chừng nào Ngài đã chuẩn bị đầy đủ cho David phải ăn năn. Chính mình David nói cho chúng ta biết điều này ở Thi thiên 32:

“Khi tôi nín lặng, các xương cốt tôi tiêu-tàn, Và tôi rên siếc trọn ngày; Vì ngày và đêm tay Chúa đè nặng trên tôi; Nước bổ thân tôi tiêu hao như bởi khô hạn mùa hè. Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi; Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va; Còn Chúa tha tội ác của tôi” (Thi thiên 32:3-5).

Đức Chúa Trời đã chờ đợi để khiển trách trực tiếp David cho đến khi tâm linh của ông đã mềm mại đủ rồi nhạy cảm với tội lỗi của mình. Tấm lòng của David đã xét đoán ông rất lâu trước khi Nathan thốt ra lời lẽ quở trách của ông ta. Tôi tin sự quở trách của Nathan gần như là một sự giải khuây cho David vậy. Giờ đây, vào lúc sau cùng, tội lỗi của David đã được bung ra công khai, có thể xưng ra và được tha thứ.

Đôi khi có người yêu cầu tôi phải xác định hối cải thực sự thì phải như thế nào!?! Tôi thường nói với họ rằng trong khi sự hối cải có thể khó mô tả lắm, nó rất dễ nhận ra. Bạn sẽ nhìn biết sự ăn năn thật khi bạn nhìn thấy nó. Không có sự ăn năn lầm trong lời nói và hành động của David:

“Đa-vít bèn nói cùng Na-than rằng: Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va. Na-than đáp cùng Đa-vít rằng: Đức Giê-hô-va cũng đã xóa tội vua; vua không chết đâu” (II Samuên 12:13).

David thật sự là "người vừa lòng Đức Chúa Trời" (I Samuên 13:14; Công Vụ các Sứ Đồ 13:22). Bất chấp tội lỗi ghê khiếp của mình, David kính mến Chúa, và ông lắng nghe lời khiển trách của Nathan. Phản ứng của ông chỉ là một câu nói ngắn gọn. Không một lời bào chữa và không có điều kiện chi hết. David thừa nhận mình đã phạm vào những tội lỗi mà Nathan vừa nêu ra. David sẽ thêm chi tiết trên sự nhìn nhận ở các Thi thiên 32 và 51, song hết thảy tỏ ra một sự thừa nhận rất đơn giản về tội lỗi.

David đã được tha thứ (12:13). Ông cần phải chết đối với tội lỗi của mình, và ông đã không như thế. Nhưng sẽ có những hậu quả đau đớn dành cho tội lỗi của ông.

“Nhưng vì việc nầy vua đã gây dịp cho những kẻ thù nghịch Đức Giê-hô-va nói phạm đến Ngài, nên con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết” (II Samuên 12:14).

Không chỉ con trai của David sẽ chết, mà gia đình và xứ sở của David cũng sẽ gánh chịu nữa. Các hậu quả đã được gắn liền với tội lỗi của David:

“Cớ sau ngươi đã khinh bỉ lời của Đức Giê-hô-va, mà làm điều không đẹp lòng Ngài? Ngươi đã dùng gươm giết U-ri, người Hê-tít, lấy vợ nó làm vợ ngươi, còn nó thì ngươi đã giết bởi gươm của dân Am-môn. Nên bây giờ, gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi, bởi vì ngươi đã khinh ta, cướp vợ U-ri, người Hê-tít, đặng nàng làm vợ ngươi. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ khiến từ nhà ngươi nổi lên những tai họa giáng trên ngươi; ta sẽ bắt các vợ ngươi tại trước mắt ngươi trao cho một người lân cận ngươi, nó sẽ làm nhục chúng nó tại nơi bạch nhựt. Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy trước mặt cả Y-sơ-ra-ên và tại nơi bạch nhựt” (II Samuên 12:9-12).

Các hậu quả tội lỗi của David đã được thốt ra và được ứng nghiệm một cách chính xác. Vì cớ David đã dùng gươm để đánh hạ Uri người Hêtít, Đức Chúa Trời phán rằng gươm sẽ không khởi từ triều đình của David. Gươm thường được sử dụng trong triều đại của David. Con trai ông, Ápsalôm, sẽ giết Amnôn là con trai khác. Ápsalôm sẽ tìm cách lật đổ David, và do đó David sẽ phải chiến đấu chống lại Ápsalôm và lực lượng của chàng ta để bảo vệ vương quốc của mình. Giô-áp sẽ giết Ápsalôm. Ađônigia sẽ tìm cách lập mình làm vua trong cung điện của David, và Salômôn hiển nhiên sẽ hành quyết Ađônigia (I Các Vua 1 và 2).

Bởi vì David đã lấy vợ của người khác, Đức Chúa Trời phán rằng người khác sẽ lấy những cung phi của David cách công khai. Và thế là việc ấy đã xảy ra:

“Áp-sa-lôm bèn nói cùng A-hi-tô-phe rằng: Hai ngươi hãy mưu cùng nhau đặng định điều chúng ta phải làm. A-hi-tô-phe đáp cùng Áp-sa-lôm rằng: Hãy đi đến cùng các cung phi của thân phụ ông đã để lại đặng giữ đền. Khi cả Y-sơ-ra-ên hay rằng ông đã sỉ nhục thân phụ ông như vậy, thì hết thảy những người ở cùng ông lại sẽ càng mạnh mẽ hơn. Vậy, người ta che cho Áp-sa-lôm một cái trại ở trên sân nóc đền; rồi trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, Áp-sa-lôm đi đến cùng các cung phi của cha mình” (II Samuên 16:20-22, phần nhấn mạnh là của tôi).

Bởi vì David xem thường Chúa, đứa con Bátsêba đã có thai bởi David sẽ chết mất. Và khi đứa con này chết đi, David đã nêu một gương rất tích cực cho tất cả chúng ta trong cách ông xử lý vấn đề nầy. Từ thời điểm đứa con bị bệnh cho đến thời điểm nó qua đời, David đã kiêng ăn và cầu nguyện, biết đâu Đức Chúa Trời nhẹ tay hơn về cái chết của nó. Khi đứa bé qua đời, các tôi tớ sợ không dám nói với David, vì sợ ông sẽ tự làm hại mình. Nếu ông quá quẫn trí khi đứa trẻ bị bệnh, ông sẽ phản ứng thế nào khi ông hay được đứa trẻ đã chết? David để ý thấy các tôi tớ thì thầm với nhau và phân biệt được đứa trẻ đã chết. Khi ông trực tiếp hỏi họ có phải đứa bé đã chết rồi hay không, họ trả lời rằng nó đã chết.

Các tôi tớ của David đã bị sốc khi thấy nhà vua chổi dậy khỏi đất, tắm rửa, thay quần áo, ăn uống, và sau đó đi đến nhà của Đức Giêhôva đặng thờ lạy. Họ hỏi cho biết lý do tại sao ông đã phản ứng như ông đã có. David nói cho họ biết rằng ông biết Đức Chúa Trời sẽ thương xót đứa trẻ khi Ngài nhìn thấy sự hối cải của ông. Nhưng giờ đây đứa trẻ đã chết, David chấp nhận điều này như xảy đến từ Chúa, ông tin chắc rằng, mặc dù đứa trẻ không thể đến với ông được, một ngày nào đó ông sẽ hiệp cùng nó trong thiên đàng.

Bầy gà con về chuồng

Sự cưỡng hiếp Tama, con gái của David

Không lâu trước khi những hậu quả đã hứa cho tội lỗi của David bắt đầu mở ra. Việc trước tiên là vụ cưỡng hiếp Tama, con gái của David, do Amnôn người anh kế của nàng. Amnôn "đem lòng yêu" Tama, và nhờ sự tư vấn của Giônađáp "bạn mình", Amnôn thuyết phục David rằng anh ta bị ốm và xin cho em gái đến dọn cho anh ta một bữa ăn như một liệu pháp điều trị vậy. Tại sao David không thể cảm nhận được nguy cơ tiềm ẩn ở đây là một sự lạ lùng đối với tôi, nhưng tôi e rằng sự mù mờ của ông trong lĩnh vực này có liên quan đến sự sụp đổ đạo đức của chính ông. (David cũng có thể đã nghi ngờ và sau đó bác bỏ nó như là một ý nghĩ xuất phát từ lương tâm của ông đã tội lỗi vùi dập).

Tôi nghĩ cái điều quan trọng, ấy là Tama đã bị tấn công bằng vũ lực. Tôi tin rằng việc ấy tương tự với sự lạm dụng quyền lực của David dẫn tới sự hội hiệp về tình dục của ông với Bátsêba. Người phụ nữ không phải được "mời" đến cung điện của David; David sai các sứ giả đến, họ đưa nàng về cho ông. Và bây giờ, chính con trai của David – người con cả - là người cưỡng hiếp con gái của David và là em kế của mình. Chính David đã ra lệnh cho Tama đi đến nhà của Amnôn. Amnôn cũng sử dụng quyền lực để thực hiện tội lỗi của mình - không chỉ sức mạnh thể chất, mà con uy quyền của mình nữa. Amnôn đã ra lệnh cho tất cả các tôi tớ phải ra khỏi phòng của mình. Tama làm gì được đây? Bấy giờ David đã đạt đến mức phải tán thưởng cái điều mình có một người thân bị ngược đãi bởi một người có quyền. Vô tình, David là một người dự phần vào trong kế hoạch độc ác nầy, là điều chỉ thêm vào sự đau khổ của ông mà thôi.

Kế hoạch của Giônađáp đã tác động. Tự nhiên, anh ta nói ra hết tất cả các chi tiết, nhưng dường như Amnôn không thấy khó khăn gì trong việc nắm bắt mọi điều Giônađáp muốn nói. Những lời cầu khẩn của Tama bị bỏ qua, nhưng sau khi Amnôn thành công trong việc làm nhục em gái kế của mình, chàng ta lại trở khinh thường nàng. Không giống như David, chàng ta chẳng có ý thức gì về danh dự cả. Chàng ta sẽ không cưới nàng, như Tama tin chàng sẽ cưới, và khi nàng nài xin chàng phải cưới. Chàng ta đã đuổi Tama ra khỏi nhà và khóa cửa lại. Sự độc ác của chàng ta vượt quá sự mô tả.

Khi David hay được vụ việc này, ông đã nổi giận dữ. Ban đầu, tôi nghĩ rằng David đã không làm gì cả. Nhưng các câu 21 và 22 dường như ngụ ý khác:

“Vua Đa-vít hay được các điều đó, bèn giận lắm. Áp-sa-lôm chẳng còn nói cùng Am-nôn một lời nào, hoặc lành hay dữ, vì người ghét Am-nôn, bởi Am-nôn đã gian hiếp Ta-ma, em gái mình” (II Samuên 13:21-22).

Cả David và Ápsalôm đều tứcgiận, nhưng Ápsalôm giữ kín cơn giận ấy ở trong lòng. Chàng không nói bất cứ điều gì với Amnôn, dù xấu hay tốt. Tôi thấy phản ứng của David lại khác đi. Tôi nghĩ David có nhiều điều muốn nói với Amnôn. Song bất chấp lời lẽ của ông, David dường như không làm gì về việc ấy. Ít nhất, ông có thể đuổi Amnôn đi, hoặc ông ta khẳng định rằng Amnôn phải lấy Tama làm vợ mình. Ít nhất ông phải tỏ ra công khai sự bất đồng, y như ông đã làm khi Giô-áp sát hại Ápne vậy (II Samuên 3:27-39).

Ápsalôm chờ những hai năm để trả thù Amnôn sai lầm phạm tội chống lại em gái mình. Chàng thuyết phục David sai Amnôn đến, cùng với các con trai khác của ông, để dự một lễ kỷ niệm chàng đứng tổ chức tại trang trại của chàng trong thời gian hớt lông chiên. Một lần nữa, David dường như có một số nghi ngờ về điều này, nhưng sau cùng ông cho qua, nhơn đó trở thành một người vô tình dự phần trong cuộc giết người này. Từ các báo cáo ban đầu David nhận được, ông lo rằng tất cả các con trai của ông đã bị Ápsalôm giết, song đây không phải là trường hợp. Giônađáp cũng biết rõ đây không phải là trường hợp, và chàng nói với David như vậy. Giống như chàng tạo điều kiện cho sự hiếp dâm Tama, Giônađáp dường như đã biết rõ về kế hoạch của Ápsalôm muốn giết Amnôn, nhưng chàng đã không làm gì để ngăn chặn tội ác ấy. Giônađáp là loại "bạn hữu" chẳng có ai cần đến cả.

Sự tha hoá của Ápsalôm

Sau khi Ápsalôm đã giết Amnôn, chàng chạy sang ông ngoại của mính, là Thanh-mai, vua của Ghêsurơ (II Samuên 3:3; 13:37). Mặc dù David đã được an ủi về cái chết của Amnôn và mong mỏi muốn gặp Ápsalôm, ông đã không làm như vậy. Ápsalôm vẫn ở Ghêsurơ trong ba năm. Cuối cùng, Giô-áp dàn dựng các sự kiện để David đồng ý cho phép Ápsalôm để trở về Israel, nhưng David vẫn sẽ không nhìn thấy tận mặt con trai mình. Đến lúc David sẵn sàng gặp gỡ Ápsalôm, mối quan hệ của họ đã bị hư hỏng nặng.

Ápsalôm bước vào lãnh vực chính trị

Ápsalôm chắc chắn là một ứng cử viên hợp lý cho chức vị vua, nếu mọi vấn đề của tấm lòng không được xem xét. Chàng rất đẹp trai, sáng láng, và chàng có cách xử lý lịch thiệp với dân chúng. Thế là Ápsalôm đặt tâm trí mình vào việc tước vương quốc ra khỏi cha mình. Giống như Ápsalôm đã lặng lẽ chờ đợi để giết Amnôn, chàng cũng kiên nhẫn và thận trọng trong kế hoạch của mình để cướp lấy vương quốc ra khỏi tay David, cha mình:

“Áp-sa-lôm dậy sớm, đứng nơi mé đường vào cửa thành. Nếu gặp ai có sự kiện thưa chi đi đến vua đặng cầu xét đoán, thì Áp-sa-lôm gọi người ấy hỏi rằng: Người ở thành nào? Nếu họ đáp: Tôi tớ ông thuộc về chi phái kia của Y-sơ-ra-ên, thì Áp-sa-lôm tiếp rằng: Sự tình của ngươi thật phải và công bình; nhưng nơi đền vua nào có ai để nghe ngươi đâu. Đoạn, Áp-sa-lôm tiếp rằng: Ồ! chớ chi người ta lập ta làm quan xét trong xứ! Phàm người nào có việc tranh tụng hay kiện cáo gì cần đoán xét, sẽ đến ta, thì ta sẽ xử đoán công bình cho họ. Nếu có ai đến gần đặng lạy người, Áp-sa-lôm giơ tay ra đỡ lấy người và hôn. Áp-sa-lôm làm như vậy đối cùng hết thảy những người Y-sơ-ra-ên đi đến tìm vua, đặng cầu đoán xét; và Áp-sa-lôm dụ lấy lòng người Y-sơ-ra-ên vậy” (II Samuên 15:2-6).

Không phải là khó khăn để hiểu những gì đã xảy ra và làm thế nào Ápsalôm đã tận dụng ưu thế đó. Dân chúng sẽ đem vụ tranh chấp hoặc sự lo toan của họ cho nhà vua (I Các Vua 3:16-28), hoặc đại biểu của nhà vua, để có một sự xét đoán. Có thể David quá "bận rộn" (hoặc quá quan trọng) cho những vấn đề như vậy, và một chế độ quan lại có thể được thành lập để xử lý các vấn đề này. Những người nào phải xếp hàng chờ đợi để chuyển danh hiệu xe hơi hoặc làm mới giấy phép lái xe của họ đều biết rõ điều nầy cơ cực ra sao. Một người khôn ngoan giống như Ápsalôm nhìn thấy đây là cơ hội để đạt được lợi ích từ những người bất mãn với chính phủ của David.

Khó mà tổng kết hay hơn khi nói rằng Ápsalôm đã trở thành chính trị gia điển hình. Chàng đã dành thời gian ở giữa vòng dân sự, hứa hẹn với họ rằng chàng sẽ cung cấp cho họ những gì họ muốn, một khi chàng lên làm vua. Chàng làm cho người khác quý chuộng mình bằng cách tỏ ra ở bề ngoài rằng chàng là một tôi tớ khiêm tốn của dân sự chớ không phải là một vị vua kiêu ngạo lúc nào cũng không có thời gian dành cho người dân nhỏ bé. Dân sự ưa thích như thế, họ yêu mến chàng. Và thế là Ápsalôm đã chuyển đổi tấm lòng của dân sự hướng về chàng thay vì về David.

Ápsalôm cũng thâu tuyển các cấp lãnh đạo về phía mình, họ sẽ củng cố địa vị của chàng. Chàng tuyển dụng Ahitôphe người Ghilô, trước đây người là cố vấn đáng tin cậy của David. David nhận ra quá muộn những gì đang xảy ra. Chính qua lời của một sứ giả cho biết rằng David đã hay được một cuộc nổi dậy toàn diện đang diễn ra, dưới quyền lãnh đạo của Ápsalôm. Việc duy nhất còn lại phải làm là chạy trốn khỏi thành Jerusalem với hy vọng tránh thoát dài hạn để tập hợp lại, hầu cho các lực lượng của Ápsalôm có ​​thể bị đánh bại và âm mưu của chàng ta sẽ rơi vào chỗ thất bại.

Chỉ để một bộ khung ít người ở lại phía sau, David bỏ chạy khỏi Jerusalem, cùng với gia đình và những người trung thành với ông. Dưới đây là một thời điểm khác trong cuộc đời của David khi bạn bè chơn thật của ông tỏ ra đúng sắc màu của họ. Ytai người Ghitít từ chối không rời khỏi mặt của David, mặc dù David khuyên ông ta làm như vậy (15:19-22). Husai người Ạt-kít đã phục vụ David bằng cách quay trở lại thành Jerusalem rồi xưng mình là người trung thành với Ápsalôm, nhơn đó nắm lấy cơ hội làm lung lay mưu luận của Ahitôphe (15:31-37). Xíp-ba, tôi tớ của Mêphibôsết, đến gặp David với con lừa và cung cấp thức ăn cho nhà vua cùng và những ai theo người (16:1-4).

Simêi là một người Bêngiamin, ông nầy bực tức trước sự thực David đã thay thế triều đại của Saulơ. Ông ta đã vu cáo David về việc làm đổ máu những người thuộc gia đình Saulơ. Abisai, Xêrugia là em của Giô-áp và Asaên, muốn giết Simêi tại chỗ, nhưng David không cho phép việc ấy. David muốn biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã không phán dạy qua Simêi.

Đồng thời, khi quay trở lại thành Jerusalem, Ápsalôm đến với người của chàng rồi lên ngôi. Quyết định đầu tiên của chàng là phải làm gì về David! Những lời khuyên của Ahitôphe trực tiếp mâu thuẫn với mưu luận của Husai (người ủng hộ David). Mưu luận xung khắc của hai cố vấn có thể được tóm tắt như sau:

Mưu luận của Ahitôphe: Truy kích David ngay lập tức; Sử dụng một lực lượng tuyển chọn; Ahitôphe sẽ chỉ huy cuộc truy kích

Mưu luận của Husai: Chờ trước khi tấn công; Tập trung toàn bộ quân đội; Ápsalôm sẽ chỉ huy cuộc tấn công; Chỉ giết David; Giết David và người của ông.

Mặc dù mưu luận của Ahitôphe được đánh giá gần như là một lời tiên tri (16:23), Đức Chúa Trời đã tể trị trên các biến cố nầy hầu cho mưu luận của Husai thắng thế hơn. Điều nầy cung ứng cho David và người theo ông thời gian có cần để họ thoát thân và chuẩn bị cho trận chiến. Ahitôphe nhận ra rằng Ápsalôm sẽ không bao giờ thắng hơn David được một khi chàng chấp nhận kế hoạch do Husai đề xuất, vì vậy khi về đến nhà của mình, sắp xếp mọi việc, rồi tự vẫn chết đi.

David chia người của mình thành ba lực lượng, dẫn đầu là Giô-áp, Abisai, và Ytai người Ghitít. David dự định tiến quân với lực lượng của mình nhưng lại được thuyết phục rằng đầy sẽ là thời gian tốt nhất cho mọi người nếu ông ở lại đàng sau. Huấn thị của David cho các tướng lãnh của mình là lịnh lạc tệ hại nhất mà ông đã tung ra:

Nhà vua đã ban lệnh này cho Giô-áp, Abisai, và Ytai:

"Vua truyền lịnh nầy cho Giô-áp, A-bi-sai, và Y-tai mà rằng: Hãy vì cớ ta dong cho Áp-sa-lôm trai trẻ. Cả dân đều nghe lời vua căn dặn cho các trưởng vì Áp-sa-lôm” (II Samuên 18:5).

Rõ ràng sự điên rồ của mạng lịnh này rất đáng kinh ngạc. Đó là việc sai người của mình đến với cái chết của chính họ. Họ cần phải liều mạng sống của họ vì một kẻ thù, kẻ ấy đang tìm cách giết họ, nhưng họ được lệnh không làm gì hại đến kẻ thù ấy. Bất cứ ai cuõng nhìn biết rằng chỉ huy các lực lượng thù nghịch của đối phương đều là mục tiêu chính trong cuộc chiến:

“Người chia dân ra làm ba toán, khiến Giô-áp lãnh một toán, A-bi-sai, con của Xê-ru-gia, em của Giô-áp, lãnh một toán, còn Y-tai, người Gát, lãnh một toán. Đoạn, vua nói cùng dân sự rằng: Hẳn ta cũng sẽ đi ra với các ngươi. Nhưng dân sự thưa rằng: Vua chớ đến, vì nếu chúng tôi chạy trốn, thù nghịch sẽ không lấy làm hệ trọng gì, và dẫu đến đỗi phân nửa chúng tôi có chết đi, thì chúng nó cũng không chú ý đến; còn vua, vua bằng một vạn chúng tôi. Vậy thà vua ở trong thành chực sẵn tiếp cứu chúng tôi thì hơn. Vua tiếp rằng: Ta sẽ làm điều chi các ngươi lấy làm phải. Vậy, người đứng tại cửa thành trong khi dân sự kéo đi từng toán trăm và ngàn” (II Samuên 18:2-4; cũng xem I Các Vua 22:29-33).

Lịch sử của chính chúng ta dạy chúng ta rằng quân đội không bao giờ được gửi đi đánh một trận mà lại được dặn rằng không được thắng. May mắn cho David, đây là một mạng lịnh mà Giô-áp sẽ lờ đi.

Trận đánh diễn ra trong khu rừng của Épraim, và quân đội của David chiếm ưu thế so với quân đội của Ápsalôm. Đức Chúa Trời sử dụng địa hình như một đồng minh. Kinh thánh cho chúng ta biết rằng "có nhiều người chết mất trong rừng hơn là chết ở dưới lưỡi gươm” (18:8). Không may, Ápsalôm gặp người của David, nhưng khi chàng cưỡi con la, đầu chàng bị kẹt trong các nhánh xỏ rế của một cây thông lớn, và chàng bị treo giữa khoảng trời và đất. Người của David thấy điều đó nhưng sẽ không tấn công chàng, vì cớ mạng lịnh của David. Giô-áp nhận ra sự dại dột của mạng lịnh nầy và tự tay ông giết chết Ápsalôm. Khi các sứ giả đến gặp David để báo cáo chiến thắng của họ, thì rõ ràng rằng David quan tâm nhiều đến Ápsalôm hơn so với các chiến binh của mình. Khi David tiếp tục đau buồn về Ápsalôm, các chiến binh của ông bị xấu hổ và bắt đầu rời đi lặng lẽ, giống như thể họ đã làm một việc sai trái vậy. Giô-áp quở trách David và nói cho ông biết rằng nếu ông muốn giữ quân đội và ngôi vị của mình, thì tốt hơn ông nên tiếp cận với các binh sĩ và tỏ ra sự tán thưởng dành cho họ. Để lấy lại uy tín, David đã nắm lấy lời khuyên của Giô-áp, và người của David đã được khích lệ.

David trở về thành Jerusalem tạo ra một tình huống rất khó xử cho những ai trước đây từng từ chối không nhận ông là vua của họ. David đã nắm lấy quyền chủ động gửi lời đến Xađốc và thầy tế lễ Abiatha, thúc giục họ bảo các trưởng lão không được chậm trễ trong việc tiếp đón ông trở lại với ngai vàng. Ông cũng lập Amasa (người từng chỉ huy quân đội của Ápsalôm, nhưng cũng là một người bà con) chỉ huy quân đội của mình, thay cho Giô-áp.

Người của chi phái Giu-đa đã nhanh chóng chào đón David trở lại, nhưng các chi phái còn lại của Israel đã miễn cưỡng lắm. Khi David và những người ở với ông vượt qua sông Giôđanh, Xípba, tôi tớ của nhà Saulơ, đã đến giúp đỡ vua. Simêi, người đã rủa sả David lúc ông trốn ra khỏi thành Jerusalem, đã xin lỗi rối rít. Abisai muốn hành hình ông ta (một lần nữa), nhưng David tỏ lòng thương xót đối với Simêi, bảo đảm với ông ta rằng ông sẽ không chết vì những gì ông ta đã làm. Nhiều người khác đến để chào đón David nữa. Người của Israel khi ấy phàn nàn vì tiệc chào đón David được tổ chức chủ yếu của những người từ chính chi phái của ông – chi phái Giu-đa. Có những lời nói mạnh mẽ về sự tranh chấp giữa những người thuộc chi phái Giu-đa và những người thuộc Israel, cơi rộng lỗ hổng trong mối quan hệ của họ và đặt nền móng cho vương quốc bị chia hai.

Sêba, một người Bêngiamin, đã lợi dụng các sự xung khắc giữa Giu-đa và các chi phái khác của Israel đã tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại David và Giu-đa. David trở về cung điện mình và ra lệnh cho Amasa tập hợp người của chi phái Giu-đa để họ có thể dập tắt sự nổi loạn của Sêba. Vì một số lý do, Amasa đã kéo dài hơn ba ngày được David chỉ định. Vì lẽ đó, David sai Abisai (em của Giô-áp) truy đuổi Sêba, cùng với Giô-áp và các lực lượng của chi phái Giu-đa. Khi họ đến gặp Amasa, Giô-áp bước tới phía trước để chào ông. Giô-áp khiến Amasa mất cảnh giác và đâm ông bằng con dao găm của mình. Một lần nữa Giô-áp nắm quyền chỉ huy quân đội. Sêba bị tử hình, và chiến trận giữa Giu-đa và Israel đã kết thúc. David một lần nữa làm vua, khi Giô-áp một lần nữa chỉ huy quân đội của mình. Nhưng vương quốc của David không còn giống như trước khi ông phạm tội.

Những chương kết thúc của Samuên II

Ở chương 21 của Samuên II, chúng ta nếm trải một sự kiện rất thú vị (và hơi khó hiểu). Sau khi David đã trở lại trị vì trên Israel, quốc gia phải gánh chịu một nạn đói kém trong ba năm. Rõ ràng là Đức Chúa Trời đang tìm cách lôi kéo sự chú ý của David. Khi David cầu hỏi Chúa, ông được báo cho biết rằng nạn đói là do Saulơ giết chóc người Gabaôn. Người Gabaôn cần phải bị tiêu diệt bởi người Israel, nhưng họ đã bị lừa và dại dột bước vào một giao ước với họ, bảo đảm an toàn cho họ. Rõ ràng, Saulơ đã tìm cách gạt bỏ giao ước này bằng cách giết một số người Gabaôn. Giải pháp cho sự bất công này đòi hỏi cái chết của bảy người con cháu Sau-lơ. Khi bảy người nầy đã bị giết và xương cốt của họ - cùng với xương cốt của Saulơ và Giônathan - đã được chôn trong ngôi mộ của Kích, thì nạn đói kết thúc.

Tiếp đến, chúng ta đọc về những trận đánh cuối cùng của David. Thể lực của David đã suy yếu, và nhiều người khác phải tấn lên để lấp đầy lỗ hỗng. David đã chiến đấu với Gôliát của ông nhiều năm trước đó, và giờ đây nó trở thành nhiệm vụ của một số người trung thành của ông phải cưu mang giống như David đã cưu mang. Trong khi Saulơ chỉ lây nhiễm binh lính với nỗi sợ hãi của chính mình, người của David đã trở nên hạng người mạnh mẽ của chiến tranh. Sự dũng cảm của người của ông là một cung hiến cho David, là lãnh đạo của họ (21:15-22).

Thi thiên được ghi lại trong II Samuên 22 cũng được ghi lại trong Cựu Ước như Thi thiên 18. Tôi tin rằng nó được lặp lại ở đây vì cớ sứ điệp của nó rất là đặc biệt thích ứng với bối cảnh. Khi một người nhìn lại đời sống của David, và nhìn vào các chiến thắng quân sự của ông, thi thiên nầy giúp chúng ta nhìn thấy sự thành công của David theo nhận thức đúng đắn của nó. Cú đột phá của Thi thiên là dâng cho Đức Chúa Trời sự vinh hiển trong các chiến thắng của David:

“Ngài tập tay tôi chiến trận, đến đỗi cánh tay tôi giương nổi cung đồng. Chúa đã ban sự chửng cứu cho tôi làm cái khiên, và sự hiền từ Chúa đã làm cho tôi nên sang trọng. Chúa mở rộng đường dưới bước tôi, và chân tôi không xiêu tó. Tôi đuổi theo kẻ thù nghịch tôi, và hủy diệt nó, chỉ trở về sau khi đã tận diệt chúng nó. Tôi trừ tiệt, đâm lủng chúng nó, không thể dậy lại được; Chúng nó sa ngã dưới chân tôi. Vì Chúa đã thắt lưng tôi bằng sức mạnh để chiến trận, và khiến kẻ dấy nghịch cùng tôi xếp rệp dưới tôi. Chúa cũng khiến kẻ thù nghịch xây lưng cùng tôi, hầu cho tôi diệt những kẻ ghét tôi. Chúng nó trông ngóng, nhưng chẳng ai cứu cho; Chúng nó kêu cùng Đức Giê-hô-va, song Ngài không đáp lại. Bấy giờ tôi đập giập chúng nó khác nào bụi dưới đất; Chà nát, giày đạp chúng nó giống như bùn ngoài đường. Chúa đã giải cứu tôi khỏi sự tranh giành của dân sự tôi, gìn giữ tôi để làm đầu các nước; Một dân tộc tôi không quen biết sẽ phục sự tôi. Các người ngoại quốc sẽ phục dưới tôi; Vừa nghe nói về tôi, chúng nó đều vâng theo tôi. Các người ngoại quốc sẽ tàn mọt, đi ra khỏi chỗ ẩn mình cách run sợ. Đức Giê-hô-va hằng sống; đáng ngợi khen hòn đá lớn tôi! Nguyện Đức Chúa Trời, là hòn đá của sự chửng cứu tôi, được tôn cao! Tức là Đức Chúa Trời báo thù cho tôi, khiến các dân tộc qui phục tôi. Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ thù nghịch; Thật Chúa nâng tôi lên cao hơn kẻ dấy nghịch cùng tôi, và cứu tôi khỏi người hung bạo. Vì vậy, Đức Giê-hô-va ôi! Tôi sẽ khen ngợi Ngài tại giữa các dân, và ca tụng danh của Ngài. Đức Giê-hô-va ban cho vua của Ngài sự giải cứu lớn lao, và làm ơn cho đấng chịu xức dầu của Ngài, tức là cho Đa-vít và cho dòng dõi người, đến đời đời” (II Samuên 22:35-51, phần nhấn mạnh là của tôi).

Tác giả của II Samuên muốn nói rõ rằng chính Đức Chúa Trời Ngài là anh hùng và David chỉ là công cụ được chọn của Đức Chúa Trời mà thôi.

Bảy câu đầu của chương 23 là một số lời nói cuối cùng của David. Ở đây, David không phát biểu như một chiến binh, mà như một văn sĩ và như ca sĩ của bài hát. Ông biết chắc rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã phán qua ông trong những điều ông đã nói và viết:

“Thần của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng ta mà phán, Và lời của Ngài ở nơi lưỡi miệng ta. Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán, Hòn Đá lớn của Y-sơ-ra-ên đã phán cùng ta rằng: Người nào cai trị loài người cách công bình, cách kính sợ Đức Chúa Trời” (II Samuên 23:2-3).

Chính vì giao ước của Đức Chúa Trời với David là ông sẽ thành công như thế. Người nào sống gian ác phải đối mặt với một số phận hoàn toàn khác. Họ sẽ kinh nghiệm sự phán xét của Đức Chúa Trời (23:6-7).

Phần còn lại của chương 23 là "đại sảnh danh vọng" của những chiến binh đã từng chiến đấu dũng cảm cho David và cho Israel. Mục đích của đại sảnh nầy dường như nói tới chiến thắng của David, mặc dù quan trọng, không phải chỉ có những việc làm của David. Ở chương 22, chúng ta được nhắc nhớ rằng thực sự chính Đức Chúa Trời, Ngài là Vua của Israel, và chính Ngài là Đấng đánh thắng mọi chiến trận của họ. Bây giờ, chúng ta được nhắc nhớ rằng chiến thắng của David cũng là nỗ lực của một đội. Những chiến binh mạnh sức nầy được liệt kê ở đây là một phần lý do tại sao David đã rất thành công trong chiến đấu. Được kê số sau cùng giữa vòng những chiến binh mạnh sức là Uri người Hêtít, người chiến binh có vợ bị David chiếm lấy, người chiến binh mà mạng sống của người đã bị David tước đi trong một nỗ lực hòng che đậy tội lỗi của ông.

Sự việc cuối cùng trong Samuên II là một sự kiện rất quan trọng đối với David và đối với Israel. Đây là tội lỗi lớn thứ hai của David. Trong một cách thức nào đó, tội nầy còn cố ý hơn nhiều so với tội lỗi của David với Bátsêba:

“Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va lại nổi phừng cùng dân Y-sơ-ra-ên. Ngài giục lòng Đa-vít nghịch cùng chúng mà rằng: Hãy đi tu bộ dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vua bèn nói với Giô-áp, là quan tổng binh ở gần người, mà rằng: Hãy đi khắp các chi phái Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba, tu bộ dân sự, để cho ta biết số dân Y-sơ-ra-ên là bao nhiêu. Giô-áp đáp cùng vua rằng: Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua làm cho dân sự vua ngày nay được còn thêm gấp bằng trăm, và nguyện mắt vua chúa tôi thấy sự gia thêm ấy! Nhưng cớ sao vua chúa tôi vui lòng về một việc như vậy? Dầu vậy mặc lòng, lời của vua mạnh hơn sự chống trả của Giô-áp và các quan tướng. Vậy, Giô-áp và các quan tướng ở trước mặt vua, đều đi ra đặng tu bộ dân Y-sơ-ra-ên” (II Samuên 24:1-4).

“Sa-tan dấy lên muốn làm hại cho Y-sơ-ra-ên, bèn giục Đa-vít lấy số Y-sơ-ra-ên. Đa-vít nói với Giô-áp và các quan trưởng của dân sự rằng: Hãy đi lấy số dân sự, từ Bê-e-Sê-ba cho đến Đan; rồi đem về tâu lại cho ta, để ta biết số họ. Giô-áp thưa; Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm dân sự Ngài nhiều gấp trăm lần đã có! Ôi vua chúa tôi! hết thảy chúng nó há chẳng phải là tôi tớ của chúa tôi sao? Cớ sao chúa tôi dạy biểu làm điều đó? Nhân sao chúa tôi muốn gây tội lỗi cho Y-sơ-ra-ên? Nhưng lời của vua thắng hơn lời của Giô-áp. Vì vậy, Giô-áp ra, đi khắp Y-sơ-ra-ên, rồi trở về Giê-ru-sa-lem” (I Sử ký 21:1-4).

Các câu chuyện tương ứng này trong II Samuên và I Sử ký cho chúng ta thấy một bức tranh hoàn chỉnh hơn về những gì đã diễn ra, là những yếu tố góp phần có liên quan. Trong II Samuên, chúng ta đọc thấy Đức Chúa Trời đã nổi giận với Israel và Ngài thúc giục David phải hành động theo một cách thức sẽ mang lại sự phán xét trên dân sự. I Sử ký cho chúng ta biết "một kẻ thù" chống lại Israel. Theo ý của tôi, thì "kẻ thù" là Satan. Trong sự cố này, chúng ta thấy tội lỗi của một người là sự lựa chọn cá nhân, vì đó người ấy phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, Sa-tan có thể "thổi bùng ngọn lửa lên", một khi hắn có khuynh hướng làm như thế. Và đằng sau mọi sự, Đức Chúa Trời hoàn toàn đang tể trị. Giống như hai chương đầu của Sách Gióp, Đức Chúa Trời có thể cho phép Satan gây ra hay ảnh hưởng ai đó, vì vậy mục đích tối cao của Ngài (của Chúa) đã được nhận biết. Tội lỗi của David đã mang lại kỷ luật thiêng liêng giáng trên đất nước Israel, nhưng phân đoạn Kinh thánh của chúng ta nói rõ rằng họ xứng đáng phải gánh chịu vì cớ tội lỗi của họ trong vai trò một quốc gia. Tôi thấy khó làm nhiều việc trong một thời điểm (ví dụ, nghe một đĩa CD Cơ đốc, trong khi viết bài giảng này); Đức Chúa Trời có thể làm nhiều việc cùng một lúc. Ngài có thể ban cho con người, và thậm chí cả Satan, một lượng tự do, và kết quả đạt được theo như kế hoạch và mục đích đã định trước của Ngài.

“Hỡi người Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời nầy: Đức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét, tức là Người mà Đức Chúa Trời đã dùng làm việc quyền phép, sự lạ và dấu lạ ở giữa các ngươi, để làm chứng cho Người trong vòng các ngươi, như chính các ngươi đều biết. Người đó bị nộp theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thập tự giá và giết đi. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại, bứt đứt dây trói của sự chết, vì nó không thể giữ Người lại dưới quyền nó” (Công Vụ các Sứ Đồ 2:22-24, phần nhấn mạnh là của tôi).

Từ điểm nầy trở đi, chúng ta xem xét tội lỗi của David từ nhận định của Ngài. David quyết định cai số người Israel. Đây là việc không nhất thiết là ác đâu, trong và tự chính nó (xem Dân số ký 1:1-2; 4:1-2; 26:1-4), nhưng đã có huấn thì về việc nầy được cung ứng ở Xuất Êdíptô ký 30:

“Đức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng: Khi nào ngươi điểm số dân Y-sơ-ra-ên đặng kê sổ, mỗi tên phải nộp tiền đền mạng mình cho Đức Giê-hô-va, hầu cho khỏi mắc tai nạn chi trong khi kê sổ” (Xuất Êdíptô ký 30:11-12).

Chúng ta không dám chắc lý do chính xác lý do tại sao cai số dân Israel là sai ở thời điểm đó. Dường như việc nầy không cần thiết lắm, và nó chỉ có thể được thực hiện để củng cố cái tôi của David. Chúng ta biết việc ấy là sai, và thậm chí cả một người không nhạy cảm về mặt thuộc linh như Giô-áp đều biết như thế, cùng với các cấp lãnh đạo khác.

David sẽ không nói ra chuỗi dự tính của ông trong sự việc, và do đó ông đã ra lệnh cho Giô-áp đi trước với việc cai sổ. Sau gần một năm, Giô-áp báo cáo số lượng các binh sĩ đã sẵn sàng cho nhà vua. Cho đến lúc đó David đã thấy bối rối do lương tâm của mình vì những gì ông đã làm. Lương tâm ray rứt của David có lẽ thích ứng với sự kiện Đức Chúa Trời dường như đã tấn công Israel với một số loại bệnh dịch (I Sử ký 21:7). Khi David thú nhận tội lỗi của mình và tham khảo ý kiến ​​với các tiên tri Gát, Chúa đã ban cho David lựa chọn sự phán xét mà ông sẽ chọn:

“Hãy đi nói với Đa-vít: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta có ba điều định cho ngươi; trong ba điều đó, hãy chọn một, rồi ta sẽ lấy nó mà phạt ngươi. Gát đi đến cùng Đa-vít, thuật các lời đó cho người, mà rằng: Vua muốn chọn điều nào? hoặc bảy năm đói kém trong nước vua, hoặc trong ba tháng vua phải chạy trốn khỏi trước mặt kẻ thù nghịch đuổi theo vua, hoặc ba ngày dịch hạch trong nước vua? Bây giờ, hãy suy nghĩ và xem điều tôi phải thưa lại cùng Đấng đã sai tôi” (II Samuên 24:12-13).

Sự lựa chọn của David về sự phán xét cho thấy rằng ông vẫn là một “người vừa lòng Đức Chúa Trời”. Ông đã chọn gánh chịu ba ngày về bệnh dịch, không phải vì đó là hình phạt khôn ngoan ngắn nhất về thời gian, mà vì án phạt này sẽ đến trực tiếp từ tay của Đức Chúa Trời.

“Đa-vít đáp cùng Gát rằng: Sự khốn khổ tôi lớn thay! Thế thì, nguyện tôi sa vào tay của Đức Giêhôva, vì những sự thương xót của Ngài là lớn lắm; nhưng chớ cho tôi sa vào tay của loài người ta” (II Samuên 24:14).

Trận dịch giáng trên Israel đúng thời gian chỉ định, và 70.000 người ngã chết trên toàn vương quốc. Trận dịch dường như đã lây lan trên toàn Israel, vì khi thiên sứ đã giơ tay của Ngài trên thành Jerusalem (vì bịnh dịch giáng trên thành phố), Chúa ngưng sự phán xét lại, và thành Jerusalem được buông tha. Thiên sứ ở gần sân đạp lúa của Arauna, người Giêbusít. David kêu la cùng với Đức Chúa Trời rằng hình phạt này thích ứng với tội lỗi của mình. Ông cầu xin sự phán xét sẽ giáng trên ông và trên gia đình ông, chớ không phải trên dân sự nầy. Gát hướng dẫn David xây dựng một bàn thờ cho Chúa trên sân đạp lúa của Arauna. David đã mua đất từ ​​Arauna, xây một bàn thờ, và sau đó dâng những của lễ thiêu và của lễ thù ân. Ngay chính địa điểm nầy (hay một nơi gần đó) Ápraham đã dâng Ysác con trai ông (Sáng thế ký 22:2). Cũng chính địa điểm nầy mà Salômôn sẽ xây dựng đền thờ (II Sử ký 3:1).

Phần kết luận

Khi tôi xem xét phân đoạn nầy, tôi có một vài sự quan tâm mà tôi phải chia sẻ với bạn trước khi tôi chuyển sang phần ứng dụng của phân đoạn Kinh thánh. Để bắt đầu, những gì chúng ta đã quan sát tại Nhà Trắng trong những năm gần đây, tất cả đều giống với những gì đã diễn ra tại cung điện của vua David cách đây nhiều thế kỷ. Kết quả là, tôi e rằng phân đoạn Kinh thánh này ít nhất là gây sốc không ít cho chúng ta. Chúng ta không lấy làm sợ hãi khi một người xưng mình tin nơi Đức Chúa Trời sẽ sống bất trung và dự phần vào tình trạng phi luân về tình dục - thực vậy, ông ta sẽ sử dụng địa vị và quyền lực của mình trong vai trò một nhà lãnh đạo tuyệt vời để làm như vậy. So với những tiết lộ gần đây của các hành vi sai trái của tổng thống, câu chuyện của David hầu như không có vẻ gây sốc cho lắm. Một người bạn của tôi từ Thế Giới Thứ Ba nói cho tôi biết rằng loại đạo đức mà chúng ta đã thấy ở đất nước ta được các nhà lãnh đạo chính trị trong các phần khác của thế giới tán thưởng. Do đó, tôi phải nói chúng ta không nên xét đoán hành động của David (hoặc hành vi người đương thời của chúng ta) theo ánh sáng nền văn hóa của chúng ta, mà thay vì thế phải theo ánh sáng của Lời Chúa. Hành vi của David thật là kinh khủng, nếu không cho ai khác, thí hành vi ấy rất kinh khủng đối với Đức Chúa Trời.

Hơn nữa, tôi không thể nói cho bạn biết bao nhiêu lần tôi đã nghe nhiều người sử dụng phân đoạn này về tội lỗi của David làm sự biện minh cho tội lỗi của họ. Khi phải đối mặt với tội lỗi của chính họ, và có quá nhiều người phản ứng như thế này: "Vâng, tôi chỉ là con người và, rốt lại, David đã phạm tội". Lối suy luận thường là: "Phải, David đã phạm tội, xưng tội, và sau đó Đức Chúa Trời buông tha, vậy tại sao Chúa phải xử lý theo cách này với tôi?"

Tôi phải nói một vài điều để đáp ứng với loại biện luận ấy. Thứ nhứt, Phaolô xử lý rất đặc biệt với loại lý luận ở Rôma 6 và cũng có ở I Côrinhtô 6:

“Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta phải cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển được dư dật chăng? Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa?” (Rôma 6:1-2)

“Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình” (Rôma 6:12-13).

“Thế thì anh em đã được kết quả gì? Ấy là quả mà anh em hiện nay đang hổ thẹn; vì sự cuối cùng của những điều đó tức là sự chết. Nhưng bây giờ đã được buông tha khỏi tội lỗi và trở nên tôi mọi của Đức Chúa Trời rồi, thì anh em được lấy sự nên thánh làm kết quả, và sự sống đời đời làm cuối cùng. Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta" (Rôma 6:21-23).

“Anh em há chẳng biết những kẻ không công bình chẳng bao giờ hưởng được nước Đức Chúa Trời sao? Chớ tự dối mình: phàm những kẻ tà dâm, kẻ thờ hình tượng, kẻ ngoại tình, kẻ làm giáng yểu điệu, kẻ đắm nam sắc, kẻ trộm cướp, kẻ hà tiện, kẻ say sưa, kẻ chưởi rủa, kẻ chắt bóp, đều chẳng hưởng được nước Đức Chúa Trời đâu. Trước kia anh em ít nữa cũng có một đôi người như thế; nhưng nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ, và nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời chúng ta, thì anh em được rửa sạch, được nên thánh, được xưng công bình rồi” (I Côrinhtô 6:9-11).

Ân điển của Đức Chúa Trời không bao giờ là sự miễn trừ dành cho tội lỗi đâu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một Cơ đốc nhân nào cố ý phạm tội và trở ra với một nụ cười trên khuôn mặt của mình, tự mãn thỏa lòng vì đã phạm tội. Tiền công của tội lỗi là sự chết. Satan hứa hẹn rất nhiều, nhưng hắn cho rất ít. Cái giá của tội lỗi rất cao, và cuộc chơi thì rất ngắn.

Thứ hai, khi chúng ta đọc toàn bộ câu chuyện nói tới cuộc đời của David sau khi ông phạm tội, chúng ta đau đớn nhìn thấy tội lỗi của ông đắt giá là ngần nào. David đã ăn năn tội lỗi của mình, và Đức Chúa Trời đã tha thứ hết, nhưng những hậu quả tội lỗi của ông rất là lớn (II Samuên 12:13-14). Con trai của David đã chết. Con gái của David đã bị cưỡng hiếp bởi một trong các con trai của ông. Người con khác tìm cách chiếm ngôi của David. Ngoài ra, còn có nhiều người Israel ngã chết nữa.

Trong những ngày gần đây, nhiều nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo đã rơi vào tội phạm về tình dục (cùng với các tội lỗi khác nữa). Một trong số người nầy đã thành tâm sám hối, những lời thú tội của một số người khác để lại một ít nghi ngờ. Những kẻ sa ngã dường như nghĩ rằng mọi sự họ thường phải làm là "ăn năn" rồi sau đó mọi chuyện sẽ trở lại theo cách mà nó đã xảy ra – không cứ cách nào đó họ đã "cho đồng hồ chạy ngược" đối với tội lỗi của họ cùng mọi hậu quả của nó. Sự việc không giống y như David ở đàng sau tội lỗi của ông, và sự thể sẽ không hề giống y như bạn, hoặc như tôi cho được. Tội lỗi luôn luôn đến với một phí tổn vượt quá bất kỳ khoái lạc nào nó có thể hứa hẹn, hoặc thậm chí cung cấp cho nữa.

Đúng là có một sự khác biệt giữa phần mô tả tội lỗi này của David, những điều chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh, và phiên bản của nó mà chúng ta nhìn thấy từ Hollywood. Tội lỗi không được tôn vinh hoặc được tán dương. Mọi hậu quả không bị bỏ qua, mọi khoái lạc của nó cũng không được đánh giá quá cao. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta muốn đưa ra lời cảnh báo chúng ta về tội lỗi, chớ không phải cám dỗ chúng ta phạm tội.

Sau khi trình bày bài học này, có một số bài học quan trọng khác để chúng ta tiếp thu từ phân đoạn Kinh thánh nầy. Cho phép tôi kết luận bằng cách đưa ra một vài lãnh vực ứng dụng.

Trước tiên, chúng ta thấy rằng mặc dù tội lỗi của con người là xấu xa và có nhiều hậu quả rất đau đớn, Đức Chúa Trời vẫn có thể lấy ác để báo thiện. Chúng ta nhìn thấy điều này với tội lỗi của các anh của Giôsép:

“Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo” (Sáng thế ký 50:20).

Trong khi đứa con đầu sinh ra cho David và Bátsêba chết đi, Salômôn con trai của họ lại được Đức Giêhôva đã yêu thương và được chọn làm vị vua kế tiếp của Israel. Tội lỗi cai sổ dân Israel của David phải trả giá bằng nhiều sinh mạng của họ, nhưng việc ấy lại dẫn đến chỗ mua lấy địa điểm mà đền thờ đã được dựng lên bởi Salômôn. Đức Chúa Trời có quyền lấy tội lỗi của con người (mà không tạo ra hoặc biện minh cho họ) rồi đổi chúng thành công cụ của phước hạnh Ngài. Đức Chúa Trời có quyền khiến cho mọi sự hiệp lại làm ích cho những ai yêu mến Ngài, là kẻ được gọi theo ý muốn của Ngài đã định (Rôma 8:28). Tội lỗi của con người không thể ngăn trở các mục đích đời đời của Đức Chúa Trời.

Thứ hai, việc che đậy tội lỗi của chúng ta chỉ thêm vào tội lỗi của chúng ta mà thôi, sự xưng tội và ăn năn chúng là phương chữa trị duy nhất. David đã tìm cách che đậy tội lỗi của ông bằng cách giết người. Điều nầy chỉ làm cho ông thêm tội mà thôi. Chỉ sau khi thú nhận tội lỗi của mình, David mới kinh nghiệm được ơn tha thứ và sự phục hòa của Đức Chúa Trời.

Thứ ba, phân đoạn Kinh thánh đã dạy dỗ chúng ta nhiều điều về vai trò lãnh đạo, đặc biệt là về lãnh đạo tồi. Trong khi David minh chứng cấp lãnh đạo tài ba khi ông chổi dậy để đánh Gôliát, ông cũng cung ứng cho chúng ta với nhiều minh họa nói tới cấp lãnh đạo tồi. David đã lạm dụng địa vị và quyền lực của mình trong việc lấy Bátsêba và giết chết chồng nàng là Uri, người Hêtít. Một người nghèo và bất lực không thể làm được những gì David đã làm. David thường xuyên thất bại trong vai trò lãnh đạo của mình khi là một người cha. Thất bại của David không lãnh đạo gia đình ông phải trả giá bằng sự trinh trắng của con gái ông là Tama và cuộc sống tan vỡ của cô ấy. Chắc chắn David đã nhìn thấy những dấu hiệu cảnh báo trong những điều Amnôn thỉnh cầu. David đã thất bại không lãnh đạo được trong một tư thế công bình trong việc giải quyết tội lỗi của Amnôn. David thất bại không kỷ luật Amnôn là một phần đổ lỗi cho cơn giận và thù hằn của Ápsalôm. David không thành công để đối phó với Ápsalôm như ông cần phải có. David buộc phải xử lý với người con trai này, mặc dù ông yêu thương con rất sâu sắc. Và sau đó, tất nhiên, David đã sai người của mình chiến đấu với Ápsalôm và quân đội của chàng ta nhưng lại kêu gọi các lực lượng của ông đừng làm tổn thương kẻ nổi loạn nầy.

Thứ tư, chúng ta học biết rằng thực sự chẳng có việc gì là tội lỗi riêng cả. Có bao nhiêu lần trong vài năm qua chúng ta đã được nói cho biết, tội lỗi của cấp lãnh đạo chính trị cao nhất ở đất nước chúng ta là "tội riêng", và do đó không phải là vấn đề dư luận quan tâm? Tội lỗi của David là tội riêng, và nó đã có mọi sự phải làm với sinh hoạt và vai trò lãnh đạo quần chúng của ông. Tội lỗi làm suy yếu uy quyền và chính quyền của David. Tội lỗi của David không chỉ phải trả giá bằng mạng sống của một một anh hùng quân đội – Uri người Hêtít - mà còn nhiều sinh mạng của một số chiến binh dũng cảm khác của mình. Tội lỗi của David đã phá hủy gia đình ông. Tội lỗi của David đã làm cho xứ sở phải chia hai và đặt dân Do Thái vào cuộc chiến tranh tương tàn. Tội riêng có mọi thứ để làm với chính sách chung, với chức vụ công khai, và với chính trị. Cho phép tôi nhắc cho bạn nhớ tới lời lẽ của Đức Chúa Trời phán cùng David:

“Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy trước mặt cả Y-sơ-ra-ên và tại nơi bạch nhựt” (II Samuên 12:12).

Khi tôi còn là một sinh viên tại Thần Học Viện Dallas, chúng tôi có buổi thờ phượng rất đặc biệt để tôn vinh lớp đã tốt nghiệp. Đây là một dịp rất trang trọng, ít nhất là cho ban giám hiệu. Nhưng có vài sinh viên đã lập một biểu ngữ cuộn lại như một cuộc giấy. Họ treo nó trên bức màn, trong tầm nhìn, và đã có một sợi dây nhỏ buộc vào để mở ra từ phía sau giảng đường. Tại thời điểm rất trang trọng, biểu ngữ đã được mở ra, và nó trải ra trước mắt của mọi người. Biểu ngữ ấy ghi như vầy: "Phải chẳng đây là thứ tốt nhứt mà ân điển của Đức Chúa Trời có thể ban ra không?" Hiển nhiên là một diễn giả mới đây đã dùng những lời lẽ này, và giờ đây chúng được áp dụng cho các lớp cao cấp.

Có một lượng lẽ thật nhất định cho những lời lẽ ấy. Lời lẽ ấy áp dụng rất dễ dàng cho các chủng sinh, sau nhiều năm nghiên cứu về ngôn ngữ gốc, thần học, và khẩu tài khi nghĩ rằng chúng ta thực sự là cái gì đó rất đặc biệt. Đấy chính xác là điều mà David đã cảm thấy, ngay trước khi ông sa ngã. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta nhắc cho chúng ta nhớ rằng ngay cả hạng người lỗi lạc nhất trong Kinh Thánh lại là hạng người có đôi chân bằng đất sét (như một người bạn của tôi hay nói: "Tôi chỉ là đất sét từ trên chí dưới"). Hạng người xuất sắc nhất đã từng sống vẫn là hạng tội nhân, ơn cứu rỗi đời đời của họ là do một mình ân điển của Đức Chúa Trời, và món quà cứu rỗi miễn phí mà Đức Chúa Trời ban cho hết thảy những ai tin, chớ không phải việc làm.

Điều này cảnh báo chúng ta về việc thần tượng hóa con người. Đấy là vấn đề với mong ước của Israel muốn có một vị vua. Đó là sự thờ lạy hình tượng. Họ muốn có một người họ có thể nhìn thấy, là người sẽ đi trước họ và đánh trận thay cho họ. Không một ai xứng đáng làm thần tượng của chúng ta. Chỉ có Đức Chúa Trời mới xứng đáng với sự thờ lạy và sùng bái tôn thờ của chúng ta trong vai trò Đức Chúa Trời. David, mặc dù là một vị vua vĩ đại, không bao giờ có thể chu toàn được những kỳ vọng của Israel về "vị vua hoàn hảo", là đấng cứu tinh được hứa cho (Sáng thế ký 3:15; 49:10; Phục truyền luật lệ ký 18:18-19; II Samuên 7 :14-16). Chỉ có Đấng Mêsi mới có thể chu toàn một vai trò như thế. David đã hy sinh nhiều người khác, cho quyền lợi của riêng mình. Chúa Jêsus gạt bỏ lợi riêng của Ngài và tự phó mình, hầu cho chúng ta có sự sống đời đời:

“Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Philíp 2:5-8).

Chỉ một mình Ngài là Đấng mà chúng ta phải thờ lạy và tôn làm Vua các vua và Chúa các chúa. Chỉ một mình Ngài là Đấng mà chúng ta nên phó mình cho để được sự tha tội và được ban cho sự sống đời đời.






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét