Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2011

Sự sụp đổ của David


Sự sụp đổ của David

Mục sư Bob Deffinbaugh

II Samuên 11-24

Phần giới thiệu:

Một vài năm trước đây, tôi đọc một câu chuyện trên báo chí mà tôi thấy thú vị. Hai vợ chồng kia quyết định lái xe đi xem phim. Người chồng có sáng kiến rất hay khi cố gắng làm giảm giá vé vào cửa. Ngay ở bên ngoài lối vào nhà hát, họ dừng xe và người chồng chui vào chiếc vali. Người vợ khi ấy trả tiền vé vào cửa của mình, đậu xe ở bên trong, rồi quay trở lại mở cho chồng mình ra khỏi vali. Chỉ có một vấn đề - ông để mấy cái chìa khóa vali trong túi quần của mình! Sau khi nỗ lực của họ không thành công, người vợ đã phải kêu xin người ta giúp đỡ. Tôi không biết có bao nhiêu người cứu hộ chạy đến, nhưng khi thời gian qua đi ai nấy đều nhận biết họ đã cố gắng để lừa nhà hát về giá vé. Những người cứu hộ buộc phải mở vali ra, điều nầy đã đem lại một sự thiệt hại. Khi mọi chuyện qua rồi, người chồng cũng như người vợ đã không xem phim, họ gánh chịu sự sỉ nhục đáng kể, và họ phải trả tiền cho việc sửa chữa chiếc vali của họ. Câu chuyện này nhắc cho tôi nhớ tới câu chuyện nói tới tội lỗi của David với Bátsêba trong phân đoạn Kinh thánh của chúng ta. Đối với David, mọi hành động của ông vào cái đêm định mệnh mùa xuân ấy dường như là bình thường, chỉ là một phút ngừng nghỉ trong một cuộc sống đạo đức khác mà thôi. Tuy nhiên, mọi hậu quả đã tàn phá, không chỉ cho David, hoặc cho Uri, mà còn cho gia đình của David và toàn bộ quốc gia nữa. Cả nước đã trả giá cao cho tình trạng phi luân của David. Khi chúng ta nghiên cứu Cựu Ước (hoặc thậm chí Tân ước), chúng ta phải vượt qua những suy nghĩ cho rằng những sự kiện này trong Kinh Thánh là "xa lắc xa lơ" rồi – những sự kiện rất xa xưa đối với chúng ta, không chỉ trong không gian và thời gian, mà còn về sự xác đáng nữa. Tuy nhiên, đấy chẳng phải là trường hợp với phân đoạn Kinh thánh của chúng ta. Trong ánh sáng của những sự kiện gần đây trong nền chính trị Mỹ, vấn đề của chúng ta hầu như là ngược lại. Một người lạm dụng quyền lực chính trị của mình, nối theo sau bởi những cố gắng vô ích hầu bao che cho tội lỗi của ông ta, được cho là thông thường hôm nay. Các tường trình về những vụ việc như thế đã chi phối phần tin tức trong nhiều năm. Chúng ta rất quen với loại tội lỗi nầy đến nỗi chúng ta đã bớt nhạy cảm đối với nó. Chúng ta đã bị sốc và kinh hoàng, nhưng những vụ việc như thế này đã quá thông thường rồi. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta sẽ giúp chúng ta đưa ngược những vụ việc này vào nhận định đúng đắn của chúng và để nhìn xem tội lỗi giống như Đức Chúa Trời nhìn xem vậy. Khi chúng ta nghiên cứu những năm yếu kém và khó khăn nhất của cuộc đời David, hết thảy chúng ta phải ý thức sâu sắc rằng chúng ta có đủ khả năng để phạm tội mà David đã phạm, hoặc những điều nào giống như điều ác vậy. Có người đã dẫm lên những dấu chân của David. Nhiều người khác có thể đang ở trên bờ vực của việc làm nầy. Chúng ta hãy lắng nghe cho rõ lời lẽ của phân đoạn Kinh thánh gốc cùng sự giục giã và thuyết phục của Đức Thánh Linh, để chúng ta không cần phải học bài học của David thao cách khó nhọc mà ông đã học.

Một Người Như Bạn Đang Làm Gì ở Một Nơi Như Thế Này?

Những điều kiện thuận lợi cho sự sa ngã của David

“Khi ngươi cất một cái nhà mới, thì phải làm câu lơn nơi mái nhà, kẻo nếu người nào ở trên đó té xuống, ngươi gây cho nhà mình can đến huyết chăng” (Phục truyền luật lệ ký 22:8).

“Ví có một con bò báng nhằm một người đàn ông hay đàn bà phải chết đi, con bò sẽ bị ném đá chết, người ta không nên ăn thịt nó; còn người chủ bò sẽ được vô tội. Nhưng ngộ từ trước con bò có tật hay báng và chủ đã bị mắng vốn mà không cầm giữ, nếu bò nầy còn giết một người đàn ông hay đàn bà, thì nó sẽ bị ném đá, và chủ sẽ bị xử tử nữa” (Xuất Êdíptô ký 21:28-29).

Có những điều kiện nhất định khiến cho chúng ta gặp phải nhiều nan đề trong tương lai. Nếu một người cất nhà với mái nhà được sử dụng như chúng ta thường sử dụng giống như một ban công (rất phổ thông trong thế giới của Kinh thánh - xem Công Vụ các Sứ Đồ 10…), thế rồi lại không có thanh chắn bảo vệ quanh chu vi mái nhà sẽ làm ai đó té xuống là việc quá dễ dàng, thì người chủ nhà sẽ phải chịu trách nhiệm. Nếu một người làm chủ con bò mà trước đây đã báng người ta, ông ta phạm tội giết người nếu con bò đó không có báng ai nữa. Nếu bạn không cột chặt con mình vào dây an toàn, bạn sẽ chịu trách nhiệm đối với bất kỳ thương tích của đứa con ấy nếu xảy ra tai nạn. Chúng ta cũng có thể nhận vé phạt vì không siết chặt dây an toàn của chính mình. Bỏ qua các vấn đề quan trọng có thể dẫn đến rắc rối nghiêm trọng, cho chúng ta và cho nhiều người khác.

Khi tôi đọc câu chuyện nói tới sự sa ngã của David ở II Samuên 11, tôi được nhắc nhớ tới những lời lẽ nầy trong Sách Châm ngôn:

“Vì tại cửa sổ nhà ta, ta nhìn ngang qua song mặt võng ta, bèn thấy trong bọn kẻ ngu dốt, giữa vòng người thiếu niên, có một gã trai trẻ không trí hiểu, Đi qua ngoài đường gần góc nhà đàn bà ấy; Người bắt đi đường dẫn đến nhà nàng, hoặc trong lúc chạng vạng khi rốt ngày, hoặc giữa ban đêm khi tối tăm mù mịt. Kìa, người đàn bà ấy đi ra rước hắn, trang điểm như con bợm, lòng đầy mưu kế, nàng vốn nói om sòm, không thìn nết, hai chân nàng chẳng ở trong nhà, khi ở ngoài đường, lúc nơi phố chợ, rình rập tại các hẻm góc. Nàng nắm ôm hôn kẻ trai trẻ ấy, mặt chai mày đá, nói cùng chàng rằng: "Tôi có của lễ thù ân tại nhà tôi; Ngày nay tôi đã trả xong các lời khấn nguyện tôi. Bởi cớ đó, tôi ra đón anh, đặng tìm thấy mặt anh, và tôi đã tìm được. Tôi có trải trên giường tôi những mền, bằng chỉ Ê-díp-tô đủ sắc, lấy một dược, lư hội, và quế bì, mà xông thơm chỗ nằm tôi. Hãy đến, chúng ta sẽ thân ái mê mệt cho đến sáng, Vui sướng nhau về sự luyến ái. Vì chồng tôi không có ở nhà, người trẩy đi xa xuôi lắm, đem túi bạc theo tay người, đến rằm mới trở về nhà". Nàng dùng lắm lời êm dịu quyến dụ hắn, làm hắn sa ngã vì lời dua nịnh của môi miệng mình. Hắn liền đi theo nàng, như một con bò đến lò cạo, như kẻ ngu dại bị cùm dẫn đi chịu hình phạt, Cho đến khi mũi tên xoi ngang qua gan nó; như con chim bay sa vào lưới, mà không biết rằng nó rập sự sống mình” (Châm ngôn 7:6-23).

Cho phép tôi bắt đầu bằng cách nói rằng tôi không có cách so sánh nào giữa kỵ nữ này với Bátsêba, hầu ám chỉ rằng Bátsêba không cứ cách nào đó đã quyến dụ David vào trong tội lỗi giống như người nữ này quyến dụ được chàng thanh niên kia vào trong tội lỗi. Châm ngôn 7:22-23 mô tả các hành động của chàng thanh niên như đột ngột và bốc đồng, và họ thật như vậy đấy. Nhưng sự bốc đồng đột ngột của chàng ta vào trong tội lỗi đến tại phần cuối của một chuỗi các sự lựa chọn sai lầm về phần của mình. Chàng thanh niên đã đi ra ngoài lúc ban đêm, lang thang trên đường phố. Dường như chàng ta cứ nán lại ở một nơi mà lẽ ra chàng không nên có mặt ở đó. Người nữ tìm gặp chàng trai nầy và thủ thỉ với chàng ta những điều mà cô ấy biết chàng ta rất muốn nghe. Chàng ta lắng nghe những lời lẽ quyến rũ của nàng và rồi đột nhiên quyết định dự phần vào sự hiến dâng của nàng.

Mục đích của các câu châm ngôn nầy là dạy cho lớp người trẻ phải cẩn thận đối với những phụ nữ này và về các trường hợp như vậy. Phần châm ngôn nầy có thể được tóm lại như sau: "Đừng đi đến đó" Khi tôi đọc câu chuyện nói tới sự sa ngã của David, tôi nhìn thấy sự bốc đồng đột ngột đối với tội lỗi như là kết quả của một chuỗi thất bại nơi phần của David. Cho phép tôi lưu ý ngắn gọn một vài lỗi lầm rất nghiêm trọng nơi phần của David.Thứ nhứt, David đã chọn không tham gia vào trận đánh của Israel với dân Ammôn. II Samuên 11 bắt đầu với lời lẽ này:

“Qua năm mới, khi các vua thường ra tranh chiến, Đa-vít sai Giô-áp cùng các tôi tớ mình và cả đạo binh Y-sơ-ra-ên đánh giặc; chúng cướp phá xứ dân Am-môn và vây thành Ráp-ba. Nhưng vua Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem” (II Samuên 11:1, phần nhấn mạnh là của tôi).

David cần phải có mặt trên chiến trường chớ không phải trong phòng ngủ.

Thứ hai, trong thời kỳ chiến tranh, một người lính không lao mình vào sự an nhàn bình thường của cuộc sống, bao gồm cả quan hệ tình dục với vợ mình (chứ chưa nói đến vợ của ai khác). Khi David và người của ông trốn tránh Sau-lơ đến gặp thầy tế lễ Ahimêléc tại xứ Nốp, ông đã hỏi xin bánh từ Ahimêléc. Hãy để ý cẩn thận lời lẽ của thầy tế lễ và đáp ứng của David:

“Thầy tế lễ đáp cùng Đa-vít rằng: Trong tay ta không có bánh thường, chỉ có bánh thánh mà thôi; miễn là các tôi tớ ông không có đến gần đàn bà. Đa-vít đáp cùng thầy tế lễ rằng: Từ khi ta đi ra vài ba ngày rồi, chúng tôi không có lại gần một người nữ nào hết. Các bạn tôi cũng thanh sạch; còn nếu công việc tôi không thánh, thì ngày nay há chẳng nhờ kẻ làm thánh nó mà được thánh sao?” (I Samuên 21:4-5).

Lời lẽ của David đáp với Ahimêléc phản ảnh nhận thức của ông về sự thực những người nào ra trận không có việc "làm tình". Bi kịch nằm ở chỗ khi David thôi không còn hành xử như một chiến binh nữa, ông cũng tìm cách thuyết phục Uri làm như vậy. David phải cảm nhận cái nọc trong phản ứng của Nathan:

“U-ri đến, Đa-vít hỏi thăm về Giô-áp và đạo binh có bình an chăng, cùng chiến trận ra thể nào. Đoạn, vua nói cùng U-ri rằng: Hãy đi xuống nhà ngươi và rửa chân đi. Vậy, U-ri đi ra khỏi đền vua, có người đem theo người một của ăn nhà vua. Nhưng U-ri không về nhà mình, ngủ tại cửa đền vua cùng các tôi tớ vua. Người ta thuật điều đó cho Đa-vít và nói rằng: U-ri không có đi xuống nhà người. Đa-vít hỏi U-ri rằng: Chớ thì ngươi chẳng đi đường trở về sao? Cớ sao không đi xuống nhà ngươi? U-ri thưa cùng Đa-vít rằng: Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Giô-áp, là chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đang hạ trại nơi đồng trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng biết làm một sự như vậy!” (II Samuên 11:7-11, phần nhấn mạnh là của tôi)

Thứ ba, không bao lâu sau đó, Giô-áp quở nhẹ David vì không có mặt và không tham gia trận đánh của Israel với dân Ammôn:

“Giô-áp đánh Ráp-ba của dân Am-môn, và hãm lấy đế đô. Người sai sứ giả đến cùng Đa-vít mà nói rằng: Tôi có đánh Ráp-ba và hãm lấy thành ở mạn dưới rồi. Bây giờ, vua hãy nhóm hiệp chiến sĩ còn lại, đến đóng trước thành và chiếm lấy nó, kẻo tôi hãm lấy nó thì công đó về tôi chăng. Vậy, vua Đa-vít nhóm hiệp cả dân sự, kéo đến đánh Ráp-ba, vây và hãm lấy nó. Người lột cái mão triều thiên của vua dân Am-môn đội trên đầu; mão đó cân nặng một ta-lâng vàng, có trang sức những bửu thạch; Đa-vít đặt nó ở trên đầu mình. Người cũng đoạt lấy rất nhiều của cải thành mà đem đi” (II Samuên 12:26-30).

Đây chắc chắn là một chiến thắng rỗng cho David, nhưng ít nhất sau cùng ông đã xuất hiện tại Rápba. Tất cả điều này có ý nói rằng trong khi tội lỗi của David dường như là bất ngờ, và nhất định là không thích ứng, đó là việc kết quả từ chỗ David bỏ bê trách nhiệm và lạm dụng quyền lực của mình. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi chúng ta xem xét chuỗi các sự kiện nơi sự sụp đổ của ông.

Sự sa ngã của David

David chổi dậy từ giường của mình vào buổi tối và đi dạo trên mái cung điện mình. Có phải điều này có ý nói ông đã ngủ cả ngày ở trên giường? Chắc chắn ông đã không ở nhà để nắm bắt công việc của mình ở đó. Mái cung điện của David sẽ là "sân thượng chung cư" của thời buổi ấy. Không nghi ngờ chi nữa, cung điện có một đài quan sát nhìn khắp cả thành Jerusalem, và đài quan sát sẽ rất tốt khi ở trên mái cung điện. Khi ông quan sát, ông trông thấy một phụ nữ đang tắm. Điều này không nhất thiết là khác thường đâu. Tôi đã thấy nhiều người nghèo, họ đứng tắm trên các đường phố của Ấn Độ. (Trong các trường hợp như vậy, họ hoàn toàn chẳng mặc quần áo chi hết). Người nghèo không có đặc ân hoàn toàn riêng tư.

Khi David nhìn thấy người phụ nữ này, ông không phải là một người quý phái nữa. Ông không nhìn đi chỗ khác, thay vì thế đôi mắt của ông dán trên nàng giống như ông đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng vậy. Vào thời điểm nầy, ông chẳng tốt gì hơn một gã tò mò tọc mạch. Tôi phải tạm dừng ở đây trong giây lát để nói rằng những gì David đã làm là không khả thi đối với hầu hết đàn ông, bởi vì họ không sống trong một cung điện cho phép họ nhìn xuống thế giới ở dưới. Nhưng chính tội lỗi ấy càng trở nên dễ dàng hơn cho nam và nữ giới ngày nay. Tôi đang nói về tình trạng khiêu dâm. Bằng những cú nhấp chuột, chúng ta có thể xem thấy tất cả sự trần truồng và điên đảo mà chúng ta muốn có trên Internet. Chỉ bởi bấm một nút nào đó trên bộ điều khiển từ xa, chúng ta có thể nhìn thấy ảnh khoả thân nhiều hơn David nhìn thấy trên màn hình của TV của chúng ta trong khi xem một chương trình trên mạng. Vô số đời sống đã bị hủy diệt bằng cách nhìn vào những thứ mà lẽ ra chúng ta không nên nhìn.

Nếu như David không phải là vua của Israel, vấn đề này sẽ chẳng đi xa hơn đâu. Nhưng ông là một người có quyền lực nhất ở Israel. Những điều David muốn, ông có thể nhận được, và chẳng có một lời phản đối nào hết. Trước tiên, David sai tôi tớ mình hỏi thăm về danh tính của người nữ nầy. Khi họ báo cho ông biết rằng cô ấy đã có chồng, đây là một trạm kiểm soát khác sẽ kết thúc cuộc đeo đuổi của ông. Nhưng đấy chẳng phải là một rào cản cho David. Ông đã sai người đến đem người nữ này về cho ông, và ông đã ngủ với nàng.

Theo ý ​​của tôi, thì tác giả chẳng đưa ra nổ lực nào để gán bất kỳ lỗi lầm nào cho Bátsêba cả. Kinh thánh không nói cho chúng ta biết nàng đã hành động theo cách khiêu khích. Từng bước đã được thực hiện theo sáng kiến ​​của David. Lời quở trách của Nathan đặt toàn bộ sự đổ thừa lên David, không phải lên Bátsêba. Nàng chỉ là một phụ nữ trẻ, vợ của một người nước ngoài; David là nhà vua. Khi ông triệu tập ai đó đến, họ phải đến. Đây không phải là những lôi cuốn của David đã mang Bátsêba đến. Hai người chưa từng gặp nhau trước đêm đó. Chính quyền lực của David đã làm cho sự kiện này diễn ra.

Khi Bátsêba hay được mình có thai, nàng đã gửi lời đến David. Giờ đây, David đến với một trạm kiểm soát khác trong cuộc đời của mình. Ông có thể gánh lấy tội lỗi của mình và chấp nhận mọi hậu quả, hoặc ông nổ lực để che đậy. David đã chọn phần thứ nhì. Một lần nữa David đã lạm dụng quyền lực của mình. Ông triệu Uri từ chiến trường về với lý do nhận được một bản báo cáo viết tay về cách thức chiến cuộc đang diễn ra. Kế hoạch của ông là đưa Uri về nhà, giả định rằng Uri sẽ làm những gì bản thân ông đã làm - ngủ với Bátsêba. Khi ấy, thì sự việc sẽ ra thể nầy: đứa trẻ mà David làm cha lại là con của Uri.

Sự thể cũng sẽ tác động như thế, nếu Uri đã làm hành xử giống như David đã hành xử vậy. Thật là cám dỗ dường bao cho Uri làm theo như David đề nghị - đi đến ngôi nhà của mình và qua đêm với vợ của mình. Uri là một lính chiến, nhưng ông còn xuất sắc hơn thế nữa; Uri là một anh hùng quân đội (xem II Samuên 23:39). Ông là một người hiểu rõ trách nhiệm, và ông sẽ không quên nhiệm vụ của mình, ngay cả ở với vợ mình và ngay cả sau khi David đã phục cho ông say mèm (II Samuên 11:13).

Kế hoạch của David đưa Uri về ngủ với vợ mình không thành công. Uri sẽ nhìn ra đứa con không phải là của ông. David phải đối mặt với quyết định khác. Liệu ông có thú nhận tội lỗi của mình vào lúc sau cùng, hoặc ông sẽ chuyển sang cấp độ tội ác khác chăng? Thật buồn khi phải nói, David đã chọn không xưng tội. Chính vào thời điểm này David đã bước vào chỗ hội nhập với Giô-áp. David đã coi Giô-áp là một tay giết người:

“Con biết sự Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đã làm cho cha, sự nó đã làm cho hai quan tướng của Y-sơ-ra-ên, là Áp-ne, con trai của Nê-rơ, và A-ma-sa, con trai của Giê-the, là hai người nó đã giết, làm đổ huyết ra trong lúc hòa bình như trong cơn chiến trận, và khiến cho huyết đổ ra trong chiến trận dính vào đai nó thắt lưng, cùng vào giày nó mang nơi chân” (I Các Vua 2:5).

Tội lỗi tạo nên những người bạn đồng sàng thật là lạ lùng. Mối liên minh nầy giữa David và Giô-áp sẽ không bao giờ xảy ra nếu như David, trong giây lát, trở nên giống như Giô-áp, một con người có tánh bạo lực mà David đã xem khinh.

Khi nhận ta Uri quá ngay thẳng không chịu ngủ với vợ mình đang khi có chiến tranh, David liền thay đổi kế hoạch của mình. David gửi lịnh lạc Giô-áp, đặt giấy chứng tử của Uri vào trong tay người chiến binh dũng cảm nầy. Người lính nầy đáng tin cậy để mang các mạng lịnh ấy đi và thậm chí không thèm nhìn vào chúng nữa. Đúng Uri là một người không thể tin nổi!

Trong khi Uri đang ở tại vị trí tốt nhứt của mình, David giờ đây lại ở vào một chỗ thấp kém nhất. Khi bạn thôi không suy nghĩ về việc ấy nữa, David bây giờ lại rất giống với Saulơ. Uri là một người tôi tớ trung thành của David, người không làm hại nhà vua, nhưng nhà vua (David) lại tìm kiếm mạng sống của người qua cùng phương tiện mà Saulơ đã làm khi ông tìm cách giết David:

“Sau-lơ nói cùng Đa-vít rằng: Nầy Mê-ráp, con gái cả ta; ta sẽ gả nó cho ngươi làm vợ. Chỉ phải giúp ta cách mạnh bạo và đánh giặc cho Đức Giê-hô-va. Vả, Sau-lơ nói thầm rằng: Tay ta chớ nên hành hại hắn, nhưng thà tay của dân Phi-li-tin còn hơn” (I Samuên 18:17, phần nhấn mạnh là của tôi).

Mạng lịnh của David cho thấy hành động của ông thậm chí còn ác hơn lịnh lạc của Saulơ trong phân đoạn trên. Saulơ hy vọng rằng David sẽ chết đi trong chiến tranh, ông đã không ra lệnh để David bị đặt trong chỗ nóng của trận chiến và rồi cất bỏ mọi yễm trợ cho ông. Kế hoạch của Saulơ chỉ mong có cái chết của David mà thôi. Kế hoạch của David mang lại cái chết của Uri với tổn phí nhiều sinh mạng vô tội khác. David đã sẵn sàng gánh chịu mất mát nơi tay của kẻ thù để được thoát khỏi Uri. Kế hoạch của David cung ứng cho kẻ thù lợi thế và chiến thắng nhất thời. Đúng là một sự khác xa mà David đã có vào thời điểm này một khi ông từng là người chiến binh dũng cảm.

Giô-áp thực hiện chính xác mạng lịnh của David, mang lại cái chết của Uri cùng với các chiến binh Do Thái khác nữa. Khi báo cáo của Giôáp về cái chết của Uri đến với David, phản ứng của ông vô cùng tàn nhẫn:

“Đa-vít đáp cùng sứ giả rằng: Ngươi hãy nói cùng Giô-áp: Chớ lấy làm cực lòng quá về điều đó; gươm, khi giết kẻ nầy, khi giết kẻ khác. Hãy rán sức hãm thành và hủy diệt nó đi. Còn ngươi hãy giục người vững lòng bền chí” (II Samuên 11:25).

Đây đúng là một sự tương phản nơi phản ứng của David trước báo cáo về sự thất bại của người Do Thái và cái chết của Sau-lơ cùng các con trai người (xem II Samuên 1). Đúng là một sự tương phản nơi phản ứng của David trước cái chết của Ápne (II Samuên 3:28-39). Khi David hay rằng Uri đã chết, sự thể giống như David đã nói: "Phải, ngươi thắng một ít, và ngươi mất một ít".

Tôi đã lấy làm lạ không biết Bátsêba có bất kỳ ý tưởng nào (ít nhất là ban đầu) là chính David người đã ban lệnh để Uri bị giết hay không!?! Tôi e rằng David đã từng nói với nàng, tuy nhiên, điều đó đã trở thành một vấn đề của sự hiểu biết chung nhất. Kế hoạch của David là Uri phải chết và sau đó thực hiện những việc làm hào hiệp để đưa vợ ông ta vào hậu cung của mình. Kế hoạch của ông là phải hoàn thành cái chết của Uri chỉ có một người khác biết việc ấy thôi – đó là Giôáp. Điều đó đã chẳng bật mí như David đã hy vọng.

“Chẳng có sự gì giấu mà không phải lộ ra, chẳng có sự gì kín mà không được biết. Vậy nên mọi điều mà các ngươi đã nói nơi tối, sẽ nghe ra nơi sáng; mọi điều mà các ngươi đã nói vào lỗ tai trong buồng kín, sẽ giảng ra trên mái nhà” (Luca 12:2-3; cũng xem Dân số ký 32:23; I Timôthê 5:24-25).

Đối diện và xưng tội

Khi tôi còn là một sinh viên trong thần học viện, một trong những môn học mà tôi được yêu cầu phải nắm chắc là môn nghệ thuật về khẩu tài (phải rao giảng như thế nào). Tôi bị thuyết phục về tầm quan trọng của các ngôn ngữ gốc và thần học, nhưng tôi đã có ít thời gian cho các môn học về phương pháp. Nếu tôi là Nathan và tôi sẽ phải đối diện với David vì tội lỗi của ông ấy, tôi sẽ lấy hết khẩu tài của mình như có thể được. Tất nhiên, vấn đề là những gì bạn nói phải là sự thực, nhưng cách bạn nói ra sự thực cũng là một vấn đề nữa.

Nathan đã đối diện David với sự thực rất cẩn thận. Tôi không biết Nathan đã chuẩn bị sứ điệp nầy bao lâu, nhưng cách tiếp cận của ông phải là bậc thầy, và điều đó làm hoàn thành nhiệm vụ của ông. Ông đã đối diện với tội lỗi của David, đưa ông ấy đến với sự ăn năn, mà vẫn còn sống trong quá trình ấy. David đã lớn lên như một người chăn chiên. Tôi nghĩ ông ấy yêu thương bầy chiên. Khi ông giữ bầy của cha mình, David rất có thể đã có một con chiên con rất cưng. Nathan nói với David về một người nghèo kia chỉ có một con chiên, một con chiên con rất cưng. Con chiên đó giống như đứa con gái của người ấy vậy, giống như một thành viên trong gia đình. Người nầy sẽ ẳm con chiên trong tay và cho nó ăn tại bàn. Còn người giàu có kia, ông ta có một bầy chiên lớn có khách đến viếng và ở lại ăn tối. Thay vì giết một con chiên trong bầy của mình, người giàu kia đã bắt con chiên cưng của người nghèo nọ, giết đi, rồi đãi khách của mình.

Nathan đã chọn lời lẽ rất hay, chưa nhắc đến sự thực là Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đâm thủng tim của David. David đã rất tức giận. Gã này phải chết! Có lẽ David đã nói rằng ông sẽ không khoanh tay mình trước gã nầy. Theo luật, người nầy phải bồi thường cho kẻ nghèo kia gấp bốn lần, nhưng sự bồi thường ấy sẽ không bao giờ thay thế được những gì ông ta đã bị mất.

Bấy giờ, Nathan đem sứ điệp của mình về nhà. Nhân vật phản diện thực sự là David. Ấy chẳng phải là một con chiên nhỏ bị cướp khỏi tay kẻ nghèo kia, mà là một người vợ trẻ, người bị tước khỏi tay của người chồng dưới uy quyền của David. Giống như người giàu trong câu chuyện có nhiều chiên, David đã có nhiều vợ. Giống như người giàu kia đã lấy đi những thứ không thuộc về mình, David đã lấy vợ của Uri. Nếu David cảm thấy kẻ trộm giàu kia đáng chết, David còn đáng chết nhiều lần hơn dường bao vì những gì ông đã làm đối với Uri?

Có một điều làm cho tôi bối rối về lời quở trách của Nathan. Tại sao lời quở trách ấy lại đến trễ như thế chứ? Tại sao Đức Chúa Trời không đối diện với David trước khi ông phạm tội với Bátsêba? Tại sao Đức Chúa Trời không khiển trách David trước khi ông giết Uri? Tại sao Đức Chúa Trời chờ đợi quá lâu mới hành động chứ? Tôi nghĩ chúng ta có một số gợi ý trong Kinh Thánh. Ở II Phierơ 3, chúng ta đọc:

“Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ nên quên rằng ở trước mặt Chúa một ngày như ngàn năm, ngàn năm như một ngày. Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (II Phierơ 3:8-9). Từ chỗ này chúng ta học biết rằng Đức Chúa Trời chậm đem sự phán xét đến giáng trên con người như là một biểu hiện của ân điển Ngài. Đức Chúa Trời trì hoãn sự phán xét (Ngài chịu đựng lâu dài) để cung ứng cho con người cơ hội ăn năn.

Chúng ta tìm thấy lý do tại Sáng thế ký 15:

“Đức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Phải biết rằng, dòng dõi ngươi sẽ ngụ trong một xứ chẳng thuộc về chúng nó, làm tôi mọi cho dân xứ đó và bị họ hà hiếp bốn trăm năm. Nhưng, ta sẽ đoán phạt dân mà dòng dõi ngươi sẽ làm tôi mọi đó; rồi khi ra khỏi xứ, thì sẽ được của cải rất nhiều. Còn ngươi sẽ bình yên về nơi tổ phụ, hưởng lộc già sung sướng, rồi qua đời. Đến đời thứ tư, dòng dõi ngươi sẽ trở lại đây, vì tội lỗi của dân A-mô-rít chưa được đầy dẫy” (Sáng thế ký 15:13-16, phần nhấn mạnh là của tôi).

Thay vì "cay đắng với tội lỗi mới hé nụ này", đôi khi Đức Chúa Trời trì hoãn sự phán xét để cho tội lỗi đạt tới chỗ nở rộ ra hết. Trong Châm ngôn, chúng tôi tìm thấy nhiều lời cảnh báo. Thanh niên hay thanh nữ ("hỡi con ta") được khuyến khích phải tránh né tội lỗi bằng cách truyền cho họ biết địa điểm mà con đường sai lầm sẽ dẫn tới. Thí dụ, trong Châm ngôn 7, Kinh thánh thuật lại cho chúng ta biết câu chuyện kể về một chàng thanh niên và người nữ gian dâm. Ở phần kết luận, chàng thanh niên được dạy dỗ:

“Vậy bây giờ, hỡi con, hãy nghe ta, Khá chăm chỉ về các lời của miệng ta. Lòng con chớ xây vào con đường đàn bà ấy. Chớ đi lạc trong các lối nàng; Vì nàng làm nhiều người bị thương tích sa ngã, và kẻ bị nàng giết thật rất nhiều thay. Nhà nàng là con đường của âm phủ, dẫn xuống các phòng của sự chết” (Châm ngôn 7:24-27, phần nhấn mạnh là của tôi).

Một số người trong chúng ta không tiếp thu nhiều sự việc theo cách dễ dàng - do được cảnh báo trước, thay vì thế, chúng ta phải tiếp thu theo phương thức cứng rắn. Chính ở những thời điểm nầy mà Đức Chúa Trời cho phép tội lỗi của chúng tôi tự tỏ bày ra với hình thái phát triển đầy đủ của nó. Khi ấy, chúng ta mới có thể nhìn thấy rõ chỗ mà bản thân mình bị tội lỗi dẫn tới. Đức Chúa Trời đã cho phép tội lỗi của David phát triển, không kiểm soát, cho đến khi những ham muốn không kềm chế được của ông mang lại sự chết của một vài người Do Thái cùng những hậu quả tàn phá đối với gia đình và đất nước của David. Không có gì là lạ lùng cả khi Kinh Thánh phán cùng chúng ta:

“Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rôma 6:23).

Tôi tin, còn có một lý do khác nữa, cho phần chậm trễ của Đức Chúa Trời trong việc sai Nathan đến đối diện với David. Ấy chẳng phải là Đức Chúa Trời chờ đợi để bắt đầu xử lý với David đâu. Đức Chúa Trời chờ đợi để sai Nathan đến đối diện với David cho tới chừng nào Ngài đã chuẩn bị đầy đủ cho David phải ăn năn. Chính mình David nói cho chúng ta biết điều này ở Thi thiên 32:

“Khi tôi nín lặng, các xương cốt tôi tiêu-tàn, Và tôi rên siếc trọn ngày; Vì ngày và đêm tay Chúa đè nặng trên tôi; Nước bổ thân tôi tiêu hao như bởi khô hạn mùa hè. Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi; Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va; Còn Chúa tha tội ác của tôi” (Thi thiên 32:3-5).

Đức Chúa Trời đã chờ đợi để khiển trách trực tiếp David cho đến khi tâm linh của ông đã mềm mại đủ rồi nhạy cảm với tội lỗi của mình. Tấm lòng của David đã xét đoán ông rất lâu trước khi Nathan thốt ra lời lẽ quở trách của ông ta. Tôi tin sự quở trách của Nathan gần như là một sự giải khuây cho David vậy. Giờ đây, vào lúc sau cùng, tội lỗi của David đã được bung ra công khai, có thể xưng ra và được tha thứ.

Đôi khi có người yêu cầu tôi phải xác định hối cải thực sự thì phải như thế nào!?! Tôi thường nói với họ rằng trong khi sự hối cải có thể khó mô tả lắm, nó rất dễ nhận ra. Bạn sẽ nhìn biết sự ăn năn thật khi bạn nhìn thấy nó. Không có sự ăn năn lầm trong lời nói và hành động của David:

“Đa-vít bèn nói cùng Na-than rằng: Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va. Na-than đáp cùng Đa-vít rằng: Đức Giê-hô-va cũng đã xóa tội vua; vua không chết đâu” (II Samuên 12:13).

David thật sự là "người vừa lòng Đức Chúa Trời" (I Samuên 13:14; Công Vụ các Sứ Đồ 13:22). Bất chấp tội lỗi ghê khiếp của mình, David kính mến Chúa, và ông lắng nghe lời khiển trách của Nathan. Phản ứng của ông chỉ là một câu nói ngắn gọn. Không một lời bào chữa và không có điều kiện chi hết. David thừa nhận mình đã phạm vào những tội lỗi mà Nathan vừa nêu ra. David sẽ thêm chi tiết trên sự nhìn nhận ở các Thi thiên 32 và 51, song hết thảy tỏ ra một sự thừa nhận rất đơn giản về tội lỗi.

David đã được tha thứ (12:13). Ông cần phải chết đối với tội lỗi của mình, và ông đã không như thế. Nhưng sẽ có những hậu quả đau đớn dành cho tội lỗi của ông.

“Nhưng vì việc nầy vua đã gây dịp cho những kẻ thù nghịch Đức Giê-hô-va nói phạm đến Ngài, nên con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết” (II Samuên 12:14).

Không chỉ con trai của David sẽ chết, mà gia đình và xứ sở của David cũng sẽ gánh chịu nữa. Các hậu quả đã được gắn liền với tội lỗi của David:

“Cớ sau ngươi đã khinh bỉ lời của Đức Giê-hô-va, mà làm điều không đẹp lòng Ngài? Ngươi đã dùng gươm giết U-ri, người Hê-tít, lấy vợ nó làm vợ ngươi, còn nó thì ngươi đã giết bởi gươm của dân Am-môn. Nên bây giờ, gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi, bởi vì ngươi đã khinh ta, cướp vợ U-ri, người Hê-tít, đặng nàng làm vợ ngươi. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ khiến từ nhà ngươi nổi lên những tai họa giáng trên ngươi; ta sẽ bắt các vợ ngươi tại trước mắt ngươi trao cho một người lân cận ngươi, nó sẽ làm nhục chúng nó tại nơi bạch nhựt. Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy trước mặt cả Y-sơ-ra-ên và tại nơi bạch nhựt” (II Samuên 12:9-12).

Các hậu quả tội lỗi của David đã được thốt ra và được ứng nghiệm một cách chính xác. Vì cớ David đã dùng gươm để đánh hạ Uri người Hêtít, Đức Chúa Trời phán rằng gươm sẽ không khởi từ triều đình của David. Gươm thường được sử dụng trong triều đại của David. Con trai ông, Ápsalôm, sẽ giết Amnôn là con trai khác. Ápsalôm sẽ tìm cách lật đổ David, và do đó David sẽ phải chiến đấu chống lại Ápsalôm và lực lượng của chàng ta để bảo vệ vương quốc của mình. Giô-áp sẽ giết Ápsalôm. Ađônigia sẽ tìm cách lập mình làm vua trong cung điện của David, và Salômôn hiển nhiên sẽ hành quyết Ađônigia (I Các Vua 1 và 2).

Bởi vì David đã lấy vợ của người khác, Đức Chúa Trời phán rằng người khác sẽ lấy những cung phi của David cách công khai. Và thế là việc ấy đã xảy ra:

“Áp-sa-lôm bèn nói cùng A-hi-tô-phe rằng: Hai ngươi hãy mưu cùng nhau đặng định điều chúng ta phải làm. A-hi-tô-phe đáp cùng Áp-sa-lôm rằng: Hãy đi đến cùng các cung phi của thân phụ ông đã để lại đặng giữ đền. Khi cả Y-sơ-ra-ên hay rằng ông đã sỉ nhục thân phụ ông như vậy, thì hết thảy những người ở cùng ông lại sẽ càng mạnh mẽ hơn. Vậy, người ta che cho Áp-sa-lôm một cái trại ở trên sân nóc đền; rồi trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, Áp-sa-lôm đi đến cùng các cung phi của cha mình” (II Samuên 16:20-22, phần nhấn mạnh là của tôi).

Bởi vì David xem thường Chúa, đứa con Bátsêba đã có thai bởi David sẽ chết mất. Và khi đứa con này chết đi, David đã nêu một gương rất tích cực cho tất cả chúng ta trong cách ông xử lý vấn đề nầy. Từ thời điểm đứa con bị bệnh cho đến thời điểm nó qua đời, David đã kiêng ăn và cầu nguyện, biết đâu Đức Chúa Trời nhẹ tay hơn về cái chết của nó. Khi đứa bé qua đời, các tôi tớ sợ không dám nói với David, vì sợ ông sẽ tự làm hại mình. Nếu ông quá quẫn trí khi đứa trẻ bị bệnh, ông sẽ phản ứng thế nào khi ông hay được đứa trẻ đã chết? David để ý thấy các tôi tớ thì thầm với nhau và phân biệt được đứa trẻ đã chết. Khi ông trực tiếp hỏi họ có phải đứa bé đã chết rồi hay không, họ trả lời rằng nó đã chết.

Các tôi tớ của David đã bị sốc khi thấy nhà vua chổi dậy khỏi đất, tắm rửa, thay quần áo, ăn uống, và sau đó đi đến nhà của Đức Giêhôva đặng thờ lạy. Họ hỏi cho biết lý do tại sao ông đã phản ứng như ông đã có. David nói cho họ biết rằng ông biết Đức Chúa Trời sẽ thương xót đứa trẻ khi Ngài nhìn thấy sự hối cải của ông. Nhưng giờ đây đứa trẻ đã chết, David chấp nhận điều này như xảy đến từ Chúa, ông tin chắc rằng, mặc dù đứa trẻ không thể đến với ông được, một ngày nào đó ông sẽ hiệp cùng nó trong thiên đàng.

Bầy gà con về chuồng

Sự cưỡng hiếp Tama, con gái của David

Không lâu trước khi những hậu quả đã hứa cho tội lỗi của David bắt đầu mở ra. Việc trước tiên là vụ cưỡng hiếp Tama, con gái của David, do Amnôn người anh kế của nàng. Amnôn "đem lòng yêu" Tama, và nhờ sự tư vấn của Giônađáp "bạn mình", Amnôn thuyết phục David rằng anh ta bị ốm và xin cho em gái đến dọn cho anh ta một bữa ăn như một liệu pháp điều trị vậy. Tại sao David không thể cảm nhận được nguy cơ tiềm ẩn ở đây là một sự lạ lùng đối với tôi, nhưng tôi e rằng sự mù mờ của ông trong lĩnh vực này có liên quan đến sự sụp đổ đạo đức của chính ông. (David cũng có thể đã nghi ngờ và sau đó bác bỏ nó như là một ý nghĩ xuất phát từ lương tâm của ông đã tội lỗi vùi dập).

Tôi nghĩ cái điều quan trọng, ấy là Tama đã bị tấn công bằng vũ lực. Tôi tin rằng việc ấy tương tự với sự lạm dụng quyền lực của David dẫn tới sự hội hiệp về tình dục của ông với Bátsêba. Người phụ nữ không phải được "mời" đến cung điện của David; David sai các sứ giả đến, họ đưa nàng về cho ông. Và bây giờ, chính con trai của David – người con cả - là người cưỡng hiếp con gái của David và là em kế của mình. Chính David đã ra lệnh cho Tama đi đến nhà của Amnôn. Amnôn cũng sử dụng quyền lực để thực hiện tội lỗi của mình - không chỉ sức mạnh thể chất, mà con uy quyền của mình nữa. Amnôn đã ra lệnh cho tất cả các tôi tớ phải ra khỏi phòng của mình. Tama làm gì được đây? Bấy giờ David đã đạt đến mức phải tán thưởng cái điều mình có một người thân bị ngược đãi bởi một người có quyền. Vô tình, David là một người dự phần vào trong kế hoạch độc ác nầy, là điều chỉ thêm vào sự đau khổ của ông mà thôi.

Kế hoạch của Giônađáp đã tác động. Tự nhiên, anh ta nói ra hết tất cả các chi tiết, nhưng dường như Amnôn không thấy khó khăn gì trong việc nắm bắt mọi điều Giônađáp muốn nói. Những lời cầu khẩn của Tama bị bỏ qua, nhưng sau khi Amnôn thành công trong việc làm nhục em gái kế của mình, chàng ta lại trở khinh thường nàng. Không giống như David, chàng ta chẳng có ý thức gì về danh dự cả. Chàng ta sẽ không cưới nàng, như Tama tin chàng sẽ cưới, và khi nàng nài xin chàng phải cưới. Chàng ta đã đuổi Tama ra khỏi nhà và khóa cửa lại. Sự độc ác của chàng ta vượt quá sự mô tả.

Khi David hay được vụ việc này, ông đã nổi giận dữ. Ban đầu, tôi nghĩ rằng David đã không làm gì cả. Nhưng các câu 21 và 22 dường như ngụ ý khác:

“Vua Đa-vít hay được các điều đó, bèn giận lắm. Áp-sa-lôm chẳng còn nói cùng Am-nôn một lời nào, hoặc lành hay dữ, vì người ghét Am-nôn, bởi Am-nôn đã gian hiếp Ta-ma, em gái mình” (II Samuên 13:21-22).

Cả David và Ápsalôm đều tứcgiận, nhưng Ápsalôm giữ kín cơn giận ấy ở trong lòng. Chàng không nói bất cứ điều gì với Amnôn, dù xấu hay tốt. Tôi thấy phản ứng của David lại khác đi. Tôi nghĩ David có nhiều điều muốn nói với Amnôn. Song bất chấp lời lẽ của ông, David dường như không làm gì về việc ấy. Ít nhất, ông có thể đuổi Amnôn đi, hoặc ông ta khẳng định rằng Amnôn phải lấy Tama làm vợ mình. Ít nhất ông phải tỏ ra công khai sự bất đồng, y như ông đã làm khi Giô-áp sát hại Ápne vậy (II Samuên 3:27-39).

Ápsalôm chờ những hai năm để trả thù Amnôn sai lầm phạm tội chống lại em gái mình. Chàng thuyết phục David sai Amnôn đến, cùng với các con trai khác của ông, để dự một lễ kỷ niệm chàng đứng tổ chức tại trang trại của chàng trong thời gian hớt lông chiên. Một lần nữa, David dường như có một số nghi ngờ về điều này, nhưng sau cùng ông cho qua, nhơn đó trở thành một người vô tình dự phần trong cuộc giết người này. Từ các báo cáo ban đầu David nhận được, ông lo rằng tất cả các con trai của ông đã bị Ápsalôm giết, song đây không phải là trường hợp. Giônađáp cũng biết rõ đây không phải là trường hợp, và chàng nói với David như vậy. Giống như chàng tạo điều kiện cho sự hiếp dâm Tama, Giônađáp dường như đã biết rõ về kế hoạch của Ápsalôm muốn giết Amnôn, nhưng chàng đã không làm gì để ngăn chặn tội ác ấy. Giônađáp là loại "bạn hữu" chẳng có ai cần đến cả.

Sự tha hoá của Ápsalôm

Sau khi Ápsalôm đã giết Amnôn, chàng chạy sang ông ngoại của mính, là Thanh-mai, vua của Ghêsurơ (II Samuên 3:3; 13:37). Mặc dù David đã được an ủi về cái chết của Amnôn và mong mỏi muốn gặp Ápsalôm, ông đã không làm như vậy. Ápsalôm vẫn ở Ghêsurơ trong ba năm. Cuối cùng, Giô-áp dàn dựng các sự kiện để David đồng ý cho phép Ápsalôm để trở về Israel, nhưng David vẫn sẽ không nhìn thấy tận mặt con trai mình. Đến lúc David sẵn sàng gặp gỡ Ápsalôm, mối quan hệ của họ đã bị hư hỏng nặng.

Ápsalôm bước vào lãnh vực chính trị

Ápsalôm chắc chắn là một ứng cử viên hợp lý cho chức vị vua, nếu mọi vấn đề của tấm lòng không được xem xét. Chàng rất đẹp trai, sáng láng, và chàng có cách xử lý lịch thiệp với dân chúng. Thế là Ápsalôm đặt tâm trí mình vào việc tước vương quốc ra khỏi cha mình. Giống như Ápsalôm đã lặng lẽ chờ đợi để giết Amnôn, chàng cũng kiên nhẫn và thận trọng trong kế hoạch của mình để cướp lấy vương quốc ra khỏi tay David, cha mình:

“Áp-sa-lôm dậy sớm, đứng nơi mé đường vào cửa thành. Nếu gặp ai có sự kiện thưa chi đi đến vua đặng cầu xét đoán, thì Áp-sa-lôm gọi người ấy hỏi rằng: Người ở thành nào? Nếu họ đáp: Tôi tớ ông thuộc về chi phái kia của Y-sơ-ra-ên, thì Áp-sa-lôm tiếp rằng: Sự tình của ngươi thật phải và công bình; nhưng nơi đền vua nào có ai để nghe ngươi đâu. Đoạn, Áp-sa-lôm tiếp rằng: Ồ! chớ chi người ta lập ta làm quan xét trong xứ! Phàm người nào có việc tranh tụng hay kiện cáo gì cần đoán xét, sẽ đến ta, thì ta sẽ xử đoán công bình cho họ. Nếu có ai đến gần đặng lạy người, Áp-sa-lôm giơ tay ra đỡ lấy người và hôn. Áp-sa-lôm làm như vậy đối cùng hết thảy những người Y-sơ-ra-ên đi đến tìm vua, đặng cầu đoán xét; và Áp-sa-lôm dụ lấy lòng người Y-sơ-ra-ên vậy” (II Samuên 15:2-6).

Không phải là khó khăn để hiểu những gì đã xảy ra và làm thế nào Ápsalôm đã tận dụng ưu thế đó. Dân chúng sẽ đem vụ tranh chấp hoặc sự lo toan của họ cho nhà vua (I Các Vua 3:16-28), hoặc đại biểu của nhà vua, để có một sự xét đoán. Có thể David quá "bận rộn" (hoặc quá quan trọng) cho những vấn đề như vậy, và một chế độ quan lại có thể được thành lập để xử lý các vấn đề này. Những người nào phải xếp hàng chờ đợi để chuyển danh hiệu xe hơi hoặc làm mới giấy phép lái xe của họ đều biết rõ điều nầy cơ cực ra sao. Một người khôn ngoan giống như Ápsalôm nhìn thấy đây là cơ hội để đạt được lợi ích từ những người bất mãn với chính phủ của David.

Khó mà tổng kết hay hơn khi nói rằng Ápsalôm đã trở thành chính trị gia điển hình. Chàng đã dành thời gian ở giữa vòng dân sự, hứa hẹn với họ rằng chàng sẽ cung cấp cho họ những gì họ muốn, một khi chàng lên làm vua. Chàng làm cho người khác quý chuộng mình bằng cách tỏ ra ở bề ngoài rằng chàng là một tôi tớ khiêm tốn của dân sự chớ không phải là một vị vua kiêu ngạo lúc nào cũng không có thời gian dành cho người dân nhỏ bé. Dân sự ưa thích như thế, họ yêu mến chàng. Và thế là Ápsalôm đã chuyển đổi tấm lòng của dân sự hướng về chàng thay vì về David.

Ápsalôm cũng thâu tuyển các cấp lãnh đạo về phía mình, họ sẽ củng cố địa vị của chàng. Chàng tuyển dụng Ahitôphe người Ghilô, trước đây người là cố vấn đáng tin cậy của David. David nhận ra quá muộn những gì đang xảy ra. Chính qua lời của một sứ giả cho biết rằng David đã hay được một cuộc nổi dậy toàn diện đang diễn ra, dưới quyền lãnh đạo của Ápsalôm. Việc duy nhất còn lại phải làm là chạy trốn khỏi thành Jerusalem với hy vọng tránh thoát dài hạn để tập hợp lại, hầu cho các lực lượng của Ápsalôm có ​​thể bị đánh bại và âm mưu của chàng ta sẽ rơi vào chỗ thất bại.

Chỉ để một bộ khung ít người ở lại phía sau, David bỏ chạy khỏi Jerusalem, cùng với gia đình và những người trung thành với ông. Dưới đây là một thời điểm khác trong cuộc đời của David khi bạn bè chơn thật của ông tỏ ra đúng sắc màu của họ. Ytai người Ghitít từ chối không rời khỏi mặt của David, mặc dù David khuyên ông ta làm như vậy (15:19-22). Husai người Ạt-kít đã phục vụ David bằng cách quay trở lại thành Jerusalem rồi xưng mình là người trung thành với Ápsalôm, nhơn đó nắm lấy cơ hội làm lung lay mưu luận của Ahitôphe (15:31-37). Xíp-ba, tôi tớ của Mêphibôsết, đến gặp David với con lừa và cung cấp thức ăn cho nhà vua cùng và những ai theo người (16:1-4).

Simêi là một người Bêngiamin, ông nầy bực tức trước sự thực David đã thay thế triều đại của Saulơ. Ông ta đã vu cáo David về việc làm đổ máu những người thuộc gia đình Saulơ. Abisai, Xêrugia là em của Giô-áp và Asaên, muốn giết Simêi tại chỗ, nhưng David không cho phép việc ấy. David muốn biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã không phán dạy qua Simêi.

Đồng thời, khi quay trở lại thành Jerusalem, Ápsalôm đến với người của chàng rồi lên ngôi. Quyết định đầu tiên của chàng là phải làm gì về David! Những lời khuyên của Ahitôphe trực tiếp mâu thuẫn với mưu luận của Husai (người ủng hộ David). Mưu luận xung khắc của hai cố vấn có thể được tóm tắt như sau:

Mưu luận của Ahitôphe: Truy kích David ngay lập tức; Sử dụng một lực lượng tuyển chọn; Ahitôphe sẽ chỉ huy cuộc truy kích

Mưu luận của Husai: Chờ trước khi tấn công; Tập trung toàn bộ quân đội; Ápsalôm sẽ chỉ huy cuộc tấn công; Chỉ giết David; Giết David và người của ông.

Mặc dù mưu luận của Ahitôphe được đánh giá gần như là một lời tiên tri (16:23), Đức Chúa Trời đã tể trị trên các biến cố nầy hầu cho mưu luận của Husai thắng thế hơn. Điều nầy cung ứng cho David và người theo ông thời gian có cần để họ thoát thân và chuẩn bị cho trận chiến. Ahitôphe nhận ra rằng Ápsalôm sẽ không bao giờ thắng hơn David được một khi chàng chấp nhận kế hoạch do Husai đề xuất, vì vậy khi về đến nhà của mình, sắp xếp mọi việc, rồi tự vẫn chết đi.

David chia người của mình thành ba lực lượng, dẫn đầu là Giô-áp, Abisai, và Ytai người Ghitít. David dự định tiến quân với lực lượng của mình nhưng lại được thuyết phục rằng đầy sẽ là thời gian tốt nhất cho mọi người nếu ông ở lại đàng sau. Huấn thị của David cho các tướng lãnh của mình là lịnh lạc tệ hại nhất mà ông đã tung ra:

Nhà vua đã ban lệnh này cho Giô-áp, Abisai, và Ytai:

"Vua truyền lịnh nầy cho Giô-áp, A-bi-sai, và Y-tai mà rằng: Hãy vì cớ ta dong cho Áp-sa-lôm trai trẻ. Cả dân đều nghe lời vua căn dặn cho các trưởng vì Áp-sa-lôm” (II Samuên 18:5).

Rõ ràng sự điên rồ của mạng lịnh này rất đáng kinh ngạc. Đó là việc sai người của mình đến với cái chết của chính họ. Họ cần phải liều mạng sống của họ vì một kẻ thù, kẻ ấy đang tìm cách giết họ, nhưng họ được lệnh không làm gì hại đến kẻ thù ấy. Bất cứ ai cuõng nhìn biết rằng chỉ huy các lực lượng thù nghịch của đối phương đều là mục tiêu chính trong cuộc chiến:

“Người chia dân ra làm ba toán, khiến Giô-áp lãnh một toán, A-bi-sai, con của Xê-ru-gia, em của Giô-áp, lãnh một toán, còn Y-tai, người Gát, lãnh một toán. Đoạn, vua nói cùng dân sự rằng: Hẳn ta cũng sẽ đi ra với các ngươi. Nhưng dân sự thưa rằng: Vua chớ đến, vì nếu chúng tôi chạy trốn, thù nghịch sẽ không lấy làm hệ trọng gì, và dẫu đến đỗi phân nửa chúng tôi có chết đi, thì chúng nó cũng không chú ý đến; còn vua, vua bằng một vạn chúng tôi. Vậy thà vua ở trong thành chực sẵn tiếp cứu chúng tôi thì hơn. Vua tiếp rằng: Ta sẽ làm điều chi các ngươi lấy làm phải. Vậy, người đứng tại cửa thành trong khi dân sự kéo đi từng toán trăm và ngàn” (II Samuên 18:2-4; cũng xem I Các Vua 22:29-33).

Lịch sử của chính chúng ta dạy chúng ta rằng quân đội không bao giờ được gửi đi đánh một trận mà lại được dặn rằng không được thắng. May mắn cho David, đây là một mạng lịnh mà Giô-áp sẽ lờ đi.

Trận đánh diễn ra trong khu rừng của Épraim, và quân đội của David chiếm ưu thế so với quân đội của Ápsalôm. Đức Chúa Trời sử dụng địa hình như một đồng minh. Kinh thánh cho chúng ta biết rằng "có nhiều người chết mất trong rừng hơn là chết ở dưới lưỡi gươm” (18:8). Không may, Ápsalôm gặp người của David, nhưng khi chàng cưỡi con la, đầu chàng bị kẹt trong các nhánh xỏ rế của một cây thông lớn, và chàng bị treo giữa khoảng trời và đất. Người của David thấy điều đó nhưng sẽ không tấn công chàng, vì cớ mạng lịnh của David. Giô-áp nhận ra sự dại dột của mạng lịnh nầy và tự tay ông giết chết Ápsalôm. Khi các sứ giả đến gặp David để báo cáo chiến thắng của họ, thì rõ ràng rằng David quan tâm nhiều đến Ápsalôm hơn so với các chiến binh của mình. Khi David tiếp tục đau buồn về Ápsalôm, các chiến binh của ông bị xấu hổ và bắt đầu rời đi lặng lẽ, giống như thể họ đã làm một việc sai trái vậy. Giô-áp quở trách David và nói cho ông biết rằng nếu ông muốn giữ quân đội và ngôi vị của mình, thì tốt hơn ông nên tiếp cận với các binh sĩ và tỏ ra sự tán thưởng dành cho họ. Để lấy lại uy tín, David đã nắm lấy lời khuyên của Giô-áp, và người của David đã được khích lệ.

David trở về thành Jerusalem tạo ra một tình huống rất khó xử cho những ai trước đây từng từ chối không nhận ông là vua của họ. David đã nắm lấy quyền chủ động gửi lời đến Xađốc và thầy tế lễ Abiatha, thúc giục họ bảo các trưởng lão không được chậm trễ trong việc tiếp đón ông trở lại với ngai vàng. Ông cũng lập Amasa (người từng chỉ huy quân đội của Ápsalôm, nhưng cũng là một người bà con) chỉ huy quân đội của mình, thay cho Giô-áp.

Người của chi phái Giu-đa đã nhanh chóng chào đón David trở lại, nhưng các chi phái còn lại của Israel đã miễn cưỡng lắm. Khi David và những người ở với ông vượt qua sông Giôđanh, Xípba, tôi tớ của nhà Saulơ, đã đến giúp đỡ vua. Simêi, người đã rủa sả David lúc ông trốn ra khỏi thành Jerusalem, đã xin lỗi rối rít. Abisai muốn hành hình ông ta (một lần nữa), nhưng David tỏ lòng thương xót đối với Simêi, bảo đảm với ông ta rằng ông sẽ không chết vì những gì ông ta đã làm. Nhiều người khác đến để chào đón David nữa. Người của Israel khi ấy phàn nàn vì tiệc chào đón David được tổ chức chủ yếu của những người từ chính chi phái của ông – chi phái Giu-đa. Có những lời nói mạnh mẽ về sự tranh chấp giữa những người thuộc chi phái Giu-đa và những người thuộc Israel, cơi rộng lỗ hổng trong mối quan hệ của họ và đặt nền móng cho vương quốc bị chia hai.

Sêba, một người Bêngiamin, đã lợi dụng các sự xung khắc giữa Giu-đa và các chi phái khác của Israel đã tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại David và Giu-đa. David trở về cung điện mình và ra lệnh cho Amasa tập hợp người của chi phái Giu-đa để họ có thể dập tắt sự nổi loạn của Sêba. Vì một số lý do, Amasa đã kéo dài hơn ba ngày được David chỉ định. Vì lẽ đó, David sai Abisai (em của Giô-áp) truy đuổi Sêba, cùng với Giô-áp và các lực lượng của chi phái Giu-đa. Khi họ đến gặp Amasa, Giô-áp bước tới phía trước để chào ông. Giô-áp khiến Amasa mất cảnh giác và đâm ông bằng con dao găm của mình. Một lần nữa Giô-áp nắm quyền chỉ huy quân đội. Sêba bị tử hình, và chiến trận giữa Giu-đa và Israel đã kết thúc. David một lần nữa làm vua, khi Giô-áp một lần nữa chỉ huy quân đội của mình. Nhưng vương quốc của David không còn giống như trước khi ông phạm tội.

Những chương kết thúc của Samuên II

Ở chương 21 của Samuên II, chúng ta nếm trải một sự kiện rất thú vị (và hơi khó hiểu). Sau khi David đã trở lại trị vì trên Israel, quốc gia phải gánh chịu một nạn đói kém trong ba năm. Rõ ràng là Đức Chúa Trời đang tìm cách lôi kéo sự chú ý của David. Khi David cầu hỏi Chúa, ông được báo cho biết rằng nạn đói là do Saulơ giết chóc người Gabaôn. Người Gabaôn cần phải bị tiêu diệt bởi người Israel, nhưng họ đã bị lừa và dại dột bước vào một giao ước với họ, bảo đảm an toàn cho họ. Rõ ràng, Saulơ đã tìm cách gạt bỏ giao ước này bằng cách giết một số người Gabaôn. Giải pháp cho sự bất công này đòi hỏi cái chết của bảy người con cháu Sau-lơ. Khi bảy người nầy đã bị giết và xương cốt của họ - cùng với xương cốt của Saulơ và Giônathan - đã được chôn trong ngôi mộ của Kích, thì nạn đói kết thúc.

Tiếp đến, chúng ta đọc về những trận đánh cuối cùng của David. Thể lực của David đã suy yếu, và nhiều người khác phải tấn lên để lấp đầy lỗ hỗng. David đã chiến đấu với Gôliát của ông nhiều năm trước đó, và giờ đây nó trở thành nhiệm vụ của một số người trung thành của ông phải cưu mang giống như David đã cưu mang. Trong khi Saulơ chỉ lây nhiễm binh lính với nỗi sợ hãi của chính mình, người của David đã trở nên hạng người mạnh mẽ của chiến tranh. Sự dũng cảm của người của ông là một cung hiến cho David, là lãnh đạo của họ (21:15-22).

Thi thiên được ghi lại trong II Samuên 22 cũng được ghi lại trong Cựu Ước như Thi thiên 18. Tôi tin rằng nó được lặp lại ở đây vì cớ sứ điệp của nó rất là đặc biệt thích ứng với bối cảnh. Khi một người nhìn lại đời sống của David, và nhìn vào các chiến thắng quân sự của ông, thi thiên nầy giúp chúng ta nhìn thấy sự thành công của David theo nhận thức đúng đắn của nó. Cú đột phá của Thi thiên là dâng cho Đức Chúa Trời sự vinh hiển trong các chiến thắng của David:

“Ngài tập tay tôi chiến trận, đến đỗi cánh tay tôi giương nổi cung đồng. Chúa đã ban sự chửng cứu cho tôi làm cái khiên, và sự hiền từ Chúa đã làm cho tôi nên sang trọng. Chúa mở rộng đường dưới bước tôi, và chân tôi không xiêu tó. Tôi đuổi theo kẻ thù nghịch tôi, và hủy diệt nó, chỉ trở về sau khi đã tận diệt chúng nó. Tôi trừ tiệt, đâm lủng chúng nó, không thể dậy lại được; Chúng nó sa ngã dưới chân tôi. Vì Chúa đã thắt lưng tôi bằng sức mạnh để chiến trận, và khiến kẻ dấy nghịch cùng tôi xếp rệp dưới tôi. Chúa cũng khiến kẻ thù nghịch xây lưng cùng tôi, hầu cho tôi diệt những kẻ ghét tôi. Chúng nó trông ngóng, nhưng chẳng ai cứu cho; Chúng nó kêu cùng Đức Giê-hô-va, song Ngài không đáp lại. Bấy giờ tôi đập giập chúng nó khác nào bụi dưới đất; Chà nát, giày đạp chúng nó giống như bùn ngoài đường. Chúa đã giải cứu tôi khỏi sự tranh giành của dân sự tôi, gìn giữ tôi để làm đầu các nước; Một dân tộc tôi không quen biết sẽ phục sự tôi. Các người ngoại quốc sẽ phục dưới tôi; Vừa nghe nói về tôi, chúng nó đều vâng theo tôi. Các người ngoại quốc sẽ tàn mọt, đi ra khỏi chỗ ẩn mình cách run sợ. Đức Giê-hô-va hằng sống; đáng ngợi khen hòn đá lớn tôi! Nguyện Đức Chúa Trời, là hòn đá của sự chửng cứu tôi, được tôn cao! Tức là Đức Chúa Trời báo thù cho tôi, khiến các dân tộc qui phục tôi. Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ thù nghịch; Thật Chúa nâng tôi lên cao hơn kẻ dấy nghịch cùng tôi, và cứu tôi khỏi người hung bạo. Vì vậy, Đức Giê-hô-va ôi! Tôi sẽ khen ngợi Ngài tại giữa các dân, và ca tụng danh của Ngài. Đức Giê-hô-va ban cho vua của Ngài sự giải cứu lớn lao, và làm ơn cho đấng chịu xức dầu của Ngài, tức là cho Đa-vít và cho dòng dõi người, đến đời đời” (II Samuên 22:35-51, phần nhấn mạnh là của tôi).

Tác giả của II Samuên muốn nói rõ rằng chính Đức Chúa Trời Ngài là anh hùng và David chỉ là công cụ được chọn của Đức Chúa Trời mà thôi.

Bảy câu đầu của chương 23 là một số lời nói cuối cùng của David. Ở đây, David không phát biểu như một chiến binh, mà như một văn sĩ và như ca sĩ của bài hát. Ông biết chắc rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã phán qua ông trong những điều ông đã nói và viết:

“Thần của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng ta mà phán, Và lời của Ngài ở nơi lưỡi miệng ta. Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán, Hòn Đá lớn của Y-sơ-ra-ên đã phán cùng ta rằng: Người nào cai trị loài người cách công bình, cách kính sợ Đức Chúa Trời” (II Samuên 23:2-3).

Chính vì giao ước của Đức Chúa Trời với David là ông sẽ thành công như thế. Người nào sống gian ác phải đối mặt với một số phận hoàn toàn khác. Họ sẽ kinh nghiệm sự phán xét của Đức Chúa Trời (23:6-7).

Phần còn lại của chương 23 là "đại sảnh danh vọng" của những chiến binh đã từng chiến đấu dũng cảm cho David và cho Israel. Mục đích của đại sảnh nầy dường như nói tới chiến thắng của David, mặc dù quan trọng, không phải chỉ có những việc làm của David. Ở chương 22, chúng ta được nhắc nhớ rằng thực sự chính Đức Chúa Trời, Ngài là Vua của Israel, và chính Ngài là Đấng đánh thắng mọi chiến trận của họ. Bây giờ, chúng ta được nhắc nhớ rằng chiến thắng của David cũng là nỗ lực của một đội. Những chiến binh mạnh sức nầy được liệt kê ở đây là một phần lý do tại sao David đã rất thành công trong chiến đấu. Được kê số sau cùng giữa vòng những chiến binh mạnh sức là Uri người Hêtít, người chiến binh có vợ bị David chiếm lấy, người chiến binh mà mạng sống của người đã bị David tước đi trong một nỗ lực hòng che đậy tội lỗi của ông.

Sự việc cuối cùng trong Samuên II là một sự kiện rất quan trọng đối với David và đối với Israel. Đây là tội lỗi lớn thứ hai của David. Trong một cách thức nào đó, tội nầy còn cố ý hơn nhiều so với tội lỗi của David với Bátsêba:

“Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va lại nổi phừng cùng dân Y-sơ-ra-ên. Ngài giục lòng Đa-vít nghịch cùng chúng mà rằng: Hãy đi tu bộ dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vua bèn nói với Giô-áp, là quan tổng binh ở gần người, mà rằng: Hãy đi khắp các chi phái Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba, tu bộ dân sự, để cho ta biết số dân Y-sơ-ra-ên là bao nhiêu. Giô-áp đáp cùng vua rằng: Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua làm cho dân sự vua ngày nay được còn thêm gấp bằng trăm, và nguyện mắt vua chúa tôi thấy sự gia thêm ấy! Nhưng cớ sao vua chúa tôi vui lòng về một việc như vậy? Dầu vậy mặc lòng, lời của vua mạnh hơn sự chống trả của Giô-áp và các quan tướng. Vậy, Giô-áp và các quan tướng ở trước mặt vua, đều đi ra đặng tu bộ dân Y-sơ-ra-ên” (II Samuên 24:1-4).

“Sa-tan dấy lên muốn làm hại cho Y-sơ-ra-ên, bèn giục Đa-vít lấy số Y-sơ-ra-ên. Đa-vít nói với Giô-áp và các quan trưởng của dân sự rằng: Hãy đi lấy số dân sự, từ Bê-e-Sê-ba cho đến Đan; rồi đem về tâu lại cho ta, để ta biết số họ. Giô-áp thưa; Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm dân sự Ngài nhiều gấp trăm lần đã có! Ôi vua chúa tôi! hết thảy chúng nó há chẳng phải là tôi tớ của chúa tôi sao? Cớ sao chúa tôi dạy biểu làm điều đó? Nhân sao chúa tôi muốn gây tội lỗi cho Y-sơ-ra-ên? Nhưng lời của vua thắng hơn lời của Giô-áp. Vì vậy, Giô-áp ra, đi khắp Y-sơ-ra-ên, rồi trở về Giê-ru-sa-lem” (I Sử ký 21:1-4).

Các câu chuyện tương ứng này trong II Samuên và I Sử ký cho chúng ta thấy một bức tranh hoàn chỉnh hơn về những gì đã diễn ra, là những yếu tố góp phần có liên quan. Trong II Samuên, chúng ta đọc thấy Đức Chúa Trời đã nổi giận với Israel và Ngài thúc giục David phải hành động theo một cách thức sẽ mang lại sự phán xét trên dân sự. I Sử ký cho chúng ta biết "một kẻ thù" chống lại Israel. Theo ý của tôi, thì "kẻ thù" là Satan. Trong sự cố này, chúng ta thấy tội lỗi của một người là sự lựa chọn cá nhân, vì đó người ấy phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, Sa-tan có thể "thổi bùng ngọn lửa lên", một khi hắn có khuynh hướng làm như thế. Và đằng sau mọi sự, Đức Chúa Trời hoàn toàn đang tể trị. Giống như hai chương đầu của Sách Gióp, Đức Chúa Trời có thể cho phép Satan gây ra hay ảnh hưởng ai đó, vì vậy mục đích tối cao của Ngài (của Chúa) đã được nhận biết. Tội lỗi của David đã mang lại kỷ luật thiêng liêng giáng trên đất nước Israel, nhưng phân đoạn Kinh thánh của chúng ta nói rõ rằng họ xứng đáng phải gánh chịu vì cớ tội lỗi của họ trong vai trò một quốc gia. Tôi thấy khó làm nhiều việc trong một thời điểm (ví dụ, nghe một đĩa CD Cơ đốc, trong khi viết bài giảng này); Đức Chúa Trời có thể làm nhiều việc cùng một lúc. Ngài có thể ban cho con người, và thậm chí cả Satan, một lượng tự do, và kết quả đạt được theo như kế hoạch và mục đích đã định trước của Ngài.

“Hỡi người Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời nầy: Đức Chúa Jêsus ở Na-xa-rét, tức là Người mà Đức Chúa Trời đã dùng làm việc quyền phép, sự lạ và dấu lạ ở giữa các ngươi, để làm chứng cho Người trong vòng các ngươi, như chính các ngươi đều biết. Người đó bị nộp theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thập tự giá và giết đi. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại, bứt đứt dây trói của sự chết, vì nó không thể giữ Người lại dưới quyền nó” (Công Vụ các Sứ Đồ 2:22-24, phần nhấn mạnh là của tôi).

Từ điểm nầy trở đi, chúng ta xem xét tội lỗi của David từ nhận định của Ngài. David quyết định cai số người Israel. Đây là việc không nhất thiết là ác đâu, trong và tự chính nó (xem Dân số ký 1:1-2; 4:1-2; 26:1-4), nhưng đã có huấn thì về việc nầy được cung ứng ở Xuất Êdíptô ký 30:

“Đức Giê-hô-va cũng phán cùng Môi-se rằng: Khi nào ngươi điểm số dân Y-sơ-ra-ên đặng kê sổ, mỗi tên phải nộp tiền đền mạng mình cho Đức Giê-hô-va, hầu cho khỏi mắc tai nạn chi trong khi kê sổ” (Xuất Êdíptô ký 30:11-12).

Chúng ta không dám chắc lý do chính xác lý do tại sao cai số dân Israel là sai ở thời điểm đó. Dường như việc nầy không cần thiết lắm, và nó chỉ có thể được thực hiện để củng cố cái tôi của David. Chúng ta biết việc ấy là sai, và thậm chí cả một người không nhạy cảm về mặt thuộc linh như Giô-áp đều biết như thế, cùng với các cấp lãnh đạo khác.

David sẽ không nói ra chuỗi dự tính của ông trong sự việc, và do đó ông đã ra lệnh cho Giô-áp đi trước với việc cai sổ. Sau gần một năm, Giô-áp báo cáo số lượng các binh sĩ đã sẵn sàng cho nhà vua. Cho đến lúc đó David đã thấy bối rối do lương tâm của mình vì những gì ông đã làm. Lương tâm ray rứt của David có lẽ thích ứng với sự kiện Đức Chúa Trời dường như đã tấn công Israel với một số loại bệnh dịch (I Sử ký 21:7). Khi David thú nhận tội lỗi của mình và tham khảo ý kiến ​​với các tiên tri Gát, Chúa đã ban cho David lựa chọn sự phán xét mà ông sẽ chọn:

“Hãy đi nói với Đa-vít: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta có ba điều định cho ngươi; trong ba điều đó, hãy chọn một, rồi ta sẽ lấy nó mà phạt ngươi. Gát đi đến cùng Đa-vít, thuật các lời đó cho người, mà rằng: Vua muốn chọn điều nào? hoặc bảy năm đói kém trong nước vua, hoặc trong ba tháng vua phải chạy trốn khỏi trước mặt kẻ thù nghịch đuổi theo vua, hoặc ba ngày dịch hạch trong nước vua? Bây giờ, hãy suy nghĩ và xem điều tôi phải thưa lại cùng Đấng đã sai tôi” (II Samuên 24:12-13).

Sự lựa chọn của David về sự phán xét cho thấy rằng ông vẫn là một “người vừa lòng Đức Chúa Trời”. Ông đã chọn gánh chịu ba ngày về bệnh dịch, không phải vì đó là hình phạt khôn ngoan ngắn nhất về thời gian, mà vì án phạt này sẽ đến trực tiếp từ tay của Đức Chúa Trời.

“Đa-vít đáp cùng Gát rằng: Sự khốn khổ tôi lớn thay! Thế thì, nguyện tôi sa vào tay của Đức Giêhôva, vì những sự thương xót của Ngài là lớn lắm; nhưng chớ cho tôi sa vào tay của loài người ta” (II Samuên 24:14).

Trận dịch giáng trên Israel đúng thời gian chỉ định, và 70.000 người ngã chết trên toàn vương quốc. Trận dịch dường như đã lây lan trên toàn Israel, vì khi thiên sứ đã giơ tay của Ngài trên thành Jerusalem (vì bịnh dịch giáng trên thành phố), Chúa ngưng sự phán xét lại, và thành Jerusalem được buông tha. Thiên sứ ở gần sân đạp lúa của Arauna, người Giêbusít. David kêu la cùng với Đức Chúa Trời rằng hình phạt này thích ứng với tội lỗi của mình. Ông cầu xin sự phán xét sẽ giáng trên ông và trên gia đình ông, chớ không phải trên dân sự nầy. Gát hướng dẫn David xây dựng một bàn thờ cho Chúa trên sân đạp lúa của Arauna. David đã mua đất từ ​​Arauna, xây một bàn thờ, và sau đó dâng những của lễ thiêu và của lễ thù ân. Ngay chính địa điểm nầy (hay một nơi gần đó) Ápraham đã dâng Ysác con trai ông (Sáng thế ký 22:2). Cũng chính địa điểm nầy mà Salômôn sẽ xây dựng đền thờ (II Sử ký 3:1).

Phần kết luận

Khi tôi xem xét phân đoạn nầy, tôi có một vài sự quan tâm mà tôi phải chia sẻ với bạn trước khi tôi chuyển sang phần ứng dụng của phân đoạn Kinh thánh. Để bắt đầu, những gì chúng ta đã quan sát tại Nhà Trắng trong những năm gần đây, tất cả đều giống với những gì đã diễn ra tại cung điện của vua David cách đây nhiều thế kỷ. Kết quả là, tôi e rằng phân đoạn Kinh thánh này ít nhất là gây sốc không ít cho chúng ta. Chúng ta không lấy làm sợ hãi khi một người xưng mình tin nơi Đức Chúa Trời sẽ sống bất trung và dự phần vào tình trạng phi luân về tình dục - thực vậy, ông ta sẽ sử dụng địa vị và quyền lực của mình trong vai trò một nhà lãnh đạo tuyệt vời để làm như vậy. So với những tiết lộ gần đây của các hành vi sai trái của tổng thống, câu chuyện của David hầu như không có vẻ gây sốc cho lắm. Một người bạn của tôi từ Thế Giới Thứ Ba nói cho tôi biết rằng loại đạo đức mà chúng ta đã thấy ở đất nước ta được các nhà lãnh đạo chính trị trong các phần khác của thế giới tán thưởng. Do đó, tôi phải nói chúng ta không nên xét đoán hành động của David (hoặc hành vi người đương thời của chúng ta) theo ánh sáng nền văn hóa của chúng ta, mà thay vì thế phải theo ánh sáng của Lời Chúa. Hành vi của David thật là kinh khủng, nếu không cho ai khác, thí hành vi ấy rất kinh khủng đối với Đức Chúa Trời.

Hơn nữa, tôi không thể nói cho bạn biết bao nhiêu lần tôi đã nghe nhiều người sử dụng phân đoạn này về tội lỗi của David làm sự biện minh cho tội lỗi của họ. Khi phải đối mặt với tội lỗi của chính họ, và có quá nhiều người phản ứng như thế này: "Vâng, tôi chỉ là con người và, rốt lại, David đã phạm tội". Lối suy luận thường là: "Phải, David đã phạm tội, xưng tội, và sau đó Đức Chúa Trời buông tha, vậy tại sao Chúa phải xử lý theo cách này với tôi?"

Tôi phải nói một vài điều để đáp ứng với loại biện luận ấy. Thứ nhứt, Phaolô xử lý rất đặc biệt với loại lý luận ở Rôma 6 và cũng có ở I Côrinhtô 6:

“Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta phải cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển được dư dật chăng? Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa?” (Rôma 6:1-2)

“Vậy, chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chiều theo tư dục nó. Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng về sự công bình” (Rôma 6:12-13).

“Thế thì anh em đã được kết quả gì? Ấy là quả mà anh em hiện nay đang hổ thẹn; vì sự cuối cùng của những điều đó tức là sự chết. Nhưng bây giờ đã được buông tha khỏi tội lỗi và trở nên tôi mọi của Đức Chúa Trời rồi, thì anh em được lấy sự nên thánh làm kết quả, và sự sống đời đời làm cuối cùng. Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta" (Rôma 6:21-23).

“Anh em há chẳng biết những kẻ không công bình chẳng bao giờ hưởng được nước Đức Chúa Trời sao? Chớ tự dối mình: phàm những kẻ tà dâm, kẻ thờ hình tượng, kẻ ngoại tình, kẻ làm giáng yểu điệu, kẻ đắm nam sắc, kẻ trộm cướp, kẻ hà tiện, kẻ say sưa, kẻ chưởi rủa, kẻ chắt bóp, đều chẳng hưởng được nước Đức Chúa Trời đâu. Trước kia anh em ít nữa cũng có một đôi người như thế; nhưng nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ, và nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời chúng ta, thì anh em được rửa sạch, được nên thánh, được xưng công bình rồi” (I Côrinhtô 6:9-11).

Ân điển của Đức Chúa Trời không bao giờ là sự miễn trừ dành cho tội lỗi đâu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một Cơ đốc nhân nào cố ý phạm tội và trở ra với một nụ cười trên khuôn mặt của mình, tự mãn thỏa lòng vì đã phạm tội. Tiền công của tội lỗi là sự chết. Satan hứa hẹn rất nhiều, nhưng hắn cho rất ít. Cái giá của tội lỗi rất cao, và cuộc chơi thì rất ngắn.

Thứ hai, khi chúng ta đọc toàn bộ câu chuyện nói tới cuộc đời của David sau khi ông phạm tội, chúng ta đau đớn nhìn thấy tội lỗi của ông đắt giá là ngần nào. David đã ăn năn tội lỗi của mình, và Đức Chúa Trời đã tha thứ hết, nhưng những hậu quả tội lỗi của ông rất là lớn (II Samuên 12:13-14). Con trai của David đã chết. Con gái của David đã bị cưỡng hiếp bởi một trong các con trai của ông. Người con khác tìm cách chiếm ngôi của David. Ngoài ra, còn có nhiều người Israel ngã chết nữa.

Trong những ngày gần đây, nhiều nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo đã rơi vào tội phạm về tình dục (cùng với các tội lỗi khác nữa). Một trong số người nầy đã thành tâm sám hối, những lời thú tội của một số người khác để lại một ít nghi ngờ. Những kẻ sa ngã dường như nghĩ rằng mọi sự họ thường phải làm là "ăn năn" rồi sau đó mọi chuyện sẽ trở lại theo cách mà nó đã xảy ra – không cứ cách nào đó họ đã "cho đồng hồ chạy ngược" đối với tội lỗi của họ cùng mọi hậu quả của nó. Sự việc không giống y như David ở đàng sau tội lỗi của ông, và sự thể sẽ không hề giống y như bạn, hoặc như tôi cho được. Tội lỗi luôn luôn đến với một phí tổn vượt quá bất kỳ khoái lạc nào nó có thể hứa hẹn, hoặc thậm chí cung cấp cho nữa.

Đúng là có một sự khác biệt giữa phần mô tả tội lỗi này của David, những điều chúng ta tìm thấy trong Kinh Thánh, và phiên bản của nó mà chúng ta nhìn thấy từ Hollywood. Tội lỗi không được tôn vinh hoặc được tán dương. Mọi hậu quả không bị bỏ qua, mọi khoái lạc của nó cũng không được đánh giá quá cao. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta muốn đưa ra lời cảnh báo chúng ta về tội lỗi, chớ không phải cám dỗ chúng ta phạm tội.

Sau khi trình bày bài học này, có một số bài học quan trọng khác để chúng ta tiếp thu từ phân đoạn Kinh thánh nầy. Cho phép tôi kết luận bằng cách đưa ra một vài lãnh vực ứng dụng.

Trước tiên, chúng ta thấy rằng mặc dù tội lỗi của con người là xấu xa và có nhiều hậu quả rất đau đớn, Đức Chúa Trời vẫn có thể lấy ác để báo thiện. Chúng ta nhìn thấy điều này với tội lỗi của các anh của Giôsép:

“Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo” (Sáng thế ký 50:20).

Trong khi đứa con đầu sinh ra cho David và Bátsêba chết đi, Salômôn con trai của họ lại được Đức Giêhôva đã yêu thương và được chọn làm vị vua kế tiếp của Israel. Tội lỗi cai sổ dân Israel của David phải trả giá bằng nhiều sinh mạng của họ, nhưng việc ấy lại dẫn đến chỗ mua lấy địa điểm mà đền thờ đã được dựng lên bởi Salômôn. Đức Chúa Trời có quyền lấy tội lỗi của con người (mà không tạo ra hoặc biện minh cho họ) rồi đổi chúng thành công cụ của phước hạnh Ngài. Đức Chúa Trời có quyền khiến cho mọi sự hiệp lại làm ích cho những ai yêu mến Ngài, là kẻ được gọi theo ý muốn của Ngài đã định (Rôma 8:28). Tội lỗi của con người không thể ngăn trở các mục đích đời đời của Đức Chúa Trời.

Thứ hai, việc che đậy tội lỗi của chúng ta chỉ thêm vào tội lỗi của chúng ta mà thôi, sự xưng tội và ăn năn chúng là phương chữa trị duy nhất. David đã tìm cách che đậy tội lỗi của ông bằng cách giết người. Điều nầy chỉ làm cho ông thêm tội mà thôi. Chỉ sau khi thú nhận tội lỗi của mình, David mới kinh nghiệm được ơn tha thứ và sự phục hòa của Đức Chúa Trời.

Thứ ba, phân đoạn Kinh thánh đã dạy dỗ chúng ta nhiều điều về vai trò lãnh đạo, đặc biệt là về lãnh đạo tồi. Trong khi David minh chứng cấp lãnh đạo tài ba khi ông chổi dậy để đánh Gôliát, ông cũng cung ứng cho chúng ta với nhiều minh họa nói tới cấp lãnh đạo tồi. David đã lạm dụng địa vị và quyền lực của mình trong việc lấy Bátsêba và giết chết chồng nàng là Uri, người Hêtít. Một người nghèo và bất lực không thể làm được những gì David đã làm. David thường xuyên thất bại trong vai trò lãnh đạo của mình khi là một người cha. Thất bại của David không lãnh đạo gia đình ông phải trả giá bằng sự trinh trắng của con gái ông là Tama và cuộc sống tan vỡ của cô ấy. Chắc chắn David đã nhìn thấy những dấu hiệu cảnh báo trong những điều Amnôn thỉnh cầu. David đã thất bại không lãnh đạo được trong một tư thế công bình trong việc giải quyết tội lỗi của Amnôn. David thất bại không kỷ luật Amnôn là một phần đổ lỗi cho cơn giận và thù hằn của Ápsalôm. David không thành công để đối phó với Ápsalôm như ông cần phải có. David buộc phải xử lý với người con trai này, mặc dù ông yêu thương con rất sâu sắc. Và sau đó, tất nhiên, David đã sai người của mình chiến đấu với Ápsalôm và quân đội của chàng ta nhưng lại kêu gọi các lực lượng của ông đừng làm tổn thương kẻ nổi loạn nầy.

Thứ tư, chúng ta học biết rằng thực sự chẳng có việc gì là tội lỗi riêng cả. Có bao nhiêu lần trong vài năm qua chúng ta đã được nói cho biết, tội lỗi của cấp lãnh đạo chính trị cao nhất ở đất nước chúng ta là "tội riêng", và do đó không phải là vấn đề dư luận quan tâm? Tội lỗi của David là tội riêng, và nó đã có mọi sự phải làm với sinh hoạt và vai trò lãnh đạo quần chúng của ông. Tội lỗi làm suy yếu uy quyền và chính quyền của David. Tội lỗi của David không chỉ phải trả giá bằng mạng sống của một một anh hùng quân đội – Uri người Hêtít - mà còn nhiều sinh mạng của một số chiến binh dũng cảm khác của mình. Tội lỗi của David đã phá hủy gia đình ông. Tội lỗi của David đã làm cho xứ sở phải chia hai và đặt dân Do Thái vào cuộc chiến tranh tương tàn. Tội riêng có mọi thứ để làm với chính sách chung, với chức vụ công khai, và với chính trị. Cho phép tôi nhắc cho bạn nhớ tới lời lẽ của Đức Chúa Trời phán cùng David:

“Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy trước mặt cả Y-sơ-ra-ên và tại nơi bạch nhựt” (II Samuên 12:12).

Khi tôi còn là một sinh viên tại Thần Học Viện Dallas, chúng tôi có buổi thờ phượng rất đặc biệt để tôn vinh lớp đã tốt nghiệp. Đây là một dịp rất trang trọng, ít nhất là cho ban giám hiệu. Nhưng có vài sinh viên đã lập một biểu ngữ cuộn lại như một cuộc giấy. Họ treo nó trên bức màn, trong tầm nhìn, và đã có một sợi dây nhỏ buộc vào để mở ra từ phía sau giảng đường. Tại thời điểm rất trang trọng, biểu ngữ đã được mở ra, và nó trải ra trước mắt của mọi người. Biểu ngữ ấy ghi như vầy: "Phải chẳng đây là thứ tốt nhứt mà ân điển của Đức Chúa Trời có thể ban ra không?" Hiển nhiên là một diễn giả mới đây đã dùng những lời lẽ này, và giờ đây chúng được áp dụng cho các lớp cao cấp.

Có một lượng lẽ thật nhất định cho những lời lẽ ấy. Lời lẽ ấy áp dụng rất dễ dàng cho các chủng sinh, sau nhiều năm nghiên cứu về ngôn ngữ gốc, thần học, và khẩu tài khi nghĩ rằng chúng ta thực sự là cái gì đó rất đặc biệt. Đấy chính xác là điều mà David đã cảm thấy, ngay trước khi ông sa ngã. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta nhắc cho chúng ta nhớ rằng ngay cả hạng người lỗi lạc nhất trong Kinh Thánh lại là hạng người có đôi chân bằng đất sét (như một người bạn của tôi hay nói: "Tôi chỉ là đất sét từ trên chí dưới"). Hạng người xuất sắc nhất đã từng sống vẫn là hạng tội nhân, ơn cứu rỗi đời đời của họ là do một mình ân điển của Đức Chúa Trời, và món quà cứu rỗi miễn phí mà Đức Chúa Trời ban cho hết thảy những ai tin, chớ không phải việc làm.

Điều này cảnh báo chúng ta về việc thần tượng hóa con người. Đấy là vấn đề với mong ước của Israel muốn có một vị vua. Đó là sự thờ lạy hình tượng. Họ muốn có một người họ có thể nhìn thấy, là người sẽ đi trước họ và đánh trận thay cho họ. Không một ai xứng đáng làm thần tượng của chúng ta. Chỉ có Đức Chúa Trời mới xứng đáng với sự thờ lạy và sùng bái tôn thờ của chúng ta trong vai trò Đức Chúa Trời. David, mặc dù là một vị vua vĩ đại, không bao giờ có thể chu toàn được những kỳ vọng của Israel về "vị vua hoàn hảo", là đấng cứu tinh được hứa cho (Sáng thế ký 3:15; 49:10; Phục truyền luật lệ ký 18:18-19; II Samuên 7 :14-16). Chỉ có Đấng Mêsi mới có thể chu toàn một vai trò như thế. David đã hy sinh nhiều người khác, cho quyền lợi của riêng mình. Chúa Jêsus gạt bỏ lợi riêng của Ngài và tự phó mình, hầu cho chúng ta có sự sống đời đời:

“Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Philíp 2:5-8).

Chỉ một mình Ngài là Đấng mà chúng ta phải thờ lạy và tôn làm Vua các vua và Chúa các chúa. Chỉ một mình Ngài là Đấng mà chúng ta nên phó mình cho để được sự tha tội và được ban cho sự sống đời đời.






Thứ Hai, 4 tháng 4, 2011

David trở thành Vua của Israel


David trở thành Vua của Israel


Mục sư Bob Deffinbaugh


I Samuên 16 - II Samuên 10


Phần giới thiệu: “Đây là thời điểm tốt nhứt trong mọi thời kỳ, đây là thời điểm tệ hại nhất trong mọi thời kỳ, …”. Quyển The Tale of Two Cities của Charles Dickens khởi sự như thế đó. Đấy là cách vợ tôi và tôi nhìn lại những ngày mà tôi còn là sinh viên trong thần học viện. Trong hai năm đầu tiên ấy, chúng tôi thường không biết lấy tiền đâu để mua thức ăn, đóng học phí hoặc trả hóa đơn bịnh viện. Đấy là thời điểm khó nhọc trong nhiều phương diện, nhưng đấy cũng là thời điểm tốt nhứt trong mọi thời kỳ nữa đấy. Thật nhiều lần, chúng tôi nhìn thấy bàn tay tiếp trợ và bảo hộ của Đức Chúa Trời. Chúng tôi đã kinh nghiệm ân điển và sự quan phòng của Đức Chúa Trời qua nhiều bạn bè rời rộng và có lòng giúp đỡ, và qua những câu trả lời bất ngờ cho sự cầu nguyện.

Tôi nghĩ David sẽ nói y như thế về những năm tháng đầu tiên của ông, trước khi ông đạt tới quyền lực là vua của Israel. Ông đã có những thời kỳ rất khó khăn. Ông là người con út, và dường như ông phải lo làm công việc rất bẩn thỉu. Các người anh của ông chẳng lo liệu gì cho ông, nhưng đã đối đãi với ông bằng một lượng xem thường (I Samuên 17:28). Thậm chí ông đã không có mặt trong sự tuyển chọn người làm vua của Israel (I Samuên 16:10-11). Sau khi ông được xức dầu làm vị vua kế đó của Israel và đã đánh bại Gôliát, ông phải trốn tránh Saulơ, là người tìm cách giữ lấy triều đại bằng cách giết chết người thay thế mình.

Đây là thời buổi nhọc nhằn lắm cho David, nhưng đấy cũng là “thời điểm tốt nhứt trong mọi thời kỳ”. David đã học biết xử lý với hiểm nguy, và ông cũng học biết đánh trận (xem I Samuên 16:18). Ông đạt tới chỗ biết nương cậy nơi Đức Chúa Trời và yêu mến Lời của Ngài. Ông học biết vâng phục và đầu phục, thậm chí khi mạng sống ông đang ở trong chỗ nguy hiểm. Ông phát triển loại tình bạn và liên minh mật thiết, biết nhịn nhục.

Đấy là phần đầu của đời sống David sẽ là đề tài cho nghiên cứu của chúng ta trong bài học nầy. Chúng ta sẽ khởi sự với việc xức dầu của David ở I Samuên 16, và chúng ta sẽ kết thúc đúng thời điểm khi David được xức dầu làm vua của cả Israel và Giuđa (II Samuên 10). Có nhiều câu chuyện đầy khích lệ trong phân đoạn Kinh thánh của chúng ta với nhiều bài học quan trọng cho chúng ta phải tiếp thu, vì vậy chúng ta hãy lắng nghe những gì Đức Chúa Trời phán cùng chúng ta qua đời sống của David, bạn bè, và kẻ thù của ông.

David được xức dầu làm Vua của Israel (I Samuên 16:1-13)

Đức Chúa Trời quở trách Samuên vì cứ than khóc Saulơ. Ông ta không đáng được thương xót. Đức Chúa Trời đã xử lý công bằng với ông ta. Samuên khi ấy được truyền cho phải đến gặp một người có tên là Giesê ở Bếtlêhem và xức dầu cho một trong các con trai người làm vua kế tiếp của Israel. Trước tiên, cái điều bắt lấy sự chú ý của tôi trong phân đoạn nầy là nổi sợ mà Samuên tỏ ra và bởi các trưởng lão của thành Bếtlêhem:

“Sa-mu-ên thưa rằng: Làm sao tôi đi đó được? Nếu Sau-lơ hay, thì sẽ giết tôi đi. Đức Giê-hô-va phán cùng người rằng: Hãy đem theo ngươi một con bò cái tơ, và nói rằng: Tôi đến để dâng của tế lễ cho Đức Giê-hô-va. Ngươi sẽ mời Y-sai dự tế. Ta sẽ tỏ cho ngươi biết điều ngươi phải làm; rồi ngươi sẽ nhân danh ta xức dầu kẻ ta chỉ cho ngươi. Sa-mu-ên làm theo điều Đức Giê-hô-va đã phán cùng mình, và đi đến Bết-lê-hem. Những trưởng lão của thành ấy đều lấy làm bối rối, chạy đón người, mà hỏi rằng: Có phải ông đến đem bình an chăng? Người đáp rằng: Bình an” (I Samuên 16:2-4, phần nhấn mạnh là của tôi).

Chúng ta cần phải nhớ, khi lên tới điểm nầy, David chưa được chỉ định làm vị vua kế tiếp. Gôliát chưa bị David giết chết. David là một thiếu niên vô danh đang chăn chiên. Nói khác đi, Saulơ chưa bị đe dọa bởi David; ông bị đe dọa bởi bất cứ người nào đóng vai chính trong việc chỉ định người thay thế ông. Saulơ là một người nhắc cho tôi nhớ đến cách xử sự của Hêrốt, ông ta sẽ giết tất cả các con trẻ sinh sống trong và xung quanh thành Bếtlêhem, chỉ để ngăn ngừa một trong số chúng không trở thành “vua của Israel” (xem Mathiơ 2:16-18). Thậm chí Samuên còn sợ rằng Saulơ sẽ giết ông, một khi ông là nhân vật hợp pháp xức dầu cho vị vua kế tiếp. Saulơ là một con người rất nguy hiểm.

Thứ hai, sự việc hiển nhiên trong mấy câu nầy là người mà Đức Chúa Trời chọn làm vua. Giống như hầu hết chúng ta, Samuên đã nhìn vào người con cả rồi cho rằng anh ta là người mà Đức Chúa Trời đã chọn. Ông đã sai lầm. Saulơ là loại người mà Israel cần để làm vua của họ. Người con cả của Giesê có lẽ có cái gì đó giống như Saulơ ở tuổi tác, chiều cao và sức lực. Saulơ là một người có ưu thế về phần thuộc thể – ông đứng cao hơn đồng bào của mình cả cái đầu (I Samuên 9:2), nhưng tấm lòng của ông không xu hướng về Chúa. Lần nầy Đức Chúa Trời sẽ chỉ định một người có tấm lòng thật xu hướng về Ngài. David là một thanh niên điển trai (16:12), và ai nấy đều xem ông là “chiến sĩ mạnh bạo” ngay trước khi ông giết chết Gôliát (16:18). Chúng ta biết rõ binh khí của Saulơ rất rộng và cồng kềnh cho ông ta, vì vậy David phải là người nhỏ con hơn, ít nhất là nhỏ con hơn Saulơ; và, tôi dám nói chắc là ông hãy còn trẻ lắm (17:33, 43).

Có một cách xử lý rất hay vào thời buổi nầy khi quan tâm đến “lai lịch chủng tộc”, nhưng tôi đề nghị với bạn rằng chúng ta cũng nên chú ý tới “lai lịch cấp lãnh đạo”. Chính sự thực mà ai cũng biết và được chấp nhận là một số lãnh tụ không cân xứng ở Mỹ đều là những người “cao ráo, ngăm ngăm đen, và đẹp trai”, có thể nói như vậy. Trong cộng đồng Cơ đốc, chúng ta có câu nói riêng của mình về “lai lịch cấp lãnh đạo”. Ban trị sự Hội thánh và các tổ chức tư gia thường là hạng thương gia cổ áo trắng, thành công. Khi chúng ta tìm kiếm cấp lãnh đạo, chúng ta đưa ra phần chú trọng đến học vấn, sự thông minh, tự tín, quả quyết, và trên hết mọi sự, là sự thành công. Chúng ta suy nghĩ đúng khi dành tư tưởng mình nhắm vào việc Đức Chúa Trời chọn lựa David làm vua của Israel, và nguyện chúng ta đừng quên lời lẽ của Sứ đồ Phaolô về vấn đề nầy:

“Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng. Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh; Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời. Vả, ấy là nhờ Ngài mà anh em ở trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công bình, sự nên thánh, và sự cứu chuộc cho chúng ta; hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (I Côrinhtô 1:26-31).

Chúng ta hãy nhớ, các môn đồ không phải là hạng người mà chúng ta sẽ chọn để trở thành sứ đồ của Chúa chúng ta đâu:

“Khi chúng thấy sự dạn dĩ của Phi-e-rơ và Giăng, biết rõ rằng ấy là người dốt nát không học, thì đều lấy làm lạ; lại nhận biết hai người từng ở với Đức Chúa Jêsus” (Công Vụ các Sứ Đồ 4:13).

Chúng ta hãy nhìn vào phân đoạn Kinh thánh rồi nhìn vào lời lẽ của Sứ đồ Phaolô. Chúng ta hãy ý thức về sự lựa chọn Saulơ, và hãy nhìn vào sự lựa chọn David.

Sự xức dầu cho David bởi Samuên đã đánh dấu ông là sự lựa chọn của Đức Chúa Trời để làm vua kế tiếp của Israel. Có thể là các anh của David đã thở một hơi dài khuây khỏa, khi biết rằng Saulơ sẽ tìm cách giết ai đó, là người tỏ ra mối đe dọa cho việc liên tục làm vua của ông ta. Nhưng trổi hơn việc chỉ định David là sự chọn lựa của Đức Chúa Trời về một vị vua, sự xức dầu của David được kèm theo bởi “sự xức dầu” của Đức Thánh Linh:

“Sa-mu-ên lấy sừng dầu, xức cho người ở giữa các anh người. Từ ngày đó về sau, Thần của Đức Giê-hô-va cảm động Đa-vít. Sa-mu-ên đứng dậy đi về Ra-ma” (I Samuên 16:13).

Giống như với việc xức dầu của Saulơ (10:1-11), Thánh Linh của Đức Chúa Trời được ban cho để mặc lấy quyền phép cho nhà vua của Đức Chúa Trời để thi hành công việc của mình. Khi Đức Thánh Linh lìa bỏ Saulơ và đến với David, đây là một dấu hiệu chắc chắn về những việc sẽ đến. Từ điểm nầy trở đi, có nhiều việc sẽ không còn như trước nữa, kể cả Saulơ hay David.

Sự thay đổi tâm linh rất quan trọng (I Samuên 16:14-23)

Quả thật, đây là một trong những phân đoạn rất phức tạp trong I Samuên. Thực sự thì chẳng có gì ngạc nhiên khi đọc thấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời “lìa khỏi Saulơ”, song thật là khó chịu khi đọc thấy “Đức Giê-hô-va bèn khiến một ác thần khuấy khuất người” (I Samuên 16:14). Nếu Đức Chúa Trời tước vương quốc khỏi tay Saulơ rồi ban nó cho David, chúng ta có thể hiểu rõ lý do tại sao Đức Thánh Linh sẽ lìa khỏi Saulơ (câu 14) cùng một lúc ấy Thánh Linh được ban cho David (câu 13). Nhưng tại sao Đức Chúa Trời lại khiến “một ác thần” đến khuấy khuất Saulơ?

Chắc chắn chúng ta phải tự hỏi mình: “Tại sao Đức Chúa Trời lại sai một ác thần đến khuấy khuất ai đó?” Chúng ta có trông mong Satan được sai làm việc nầy không, hay chúng ta không trông mong như thế? Câu trả lời có lẽ được tìm thấy trong hai chương đầu tiên của sách Gióp. Ở đó, chúng ta đọc thấy rằng Satan phải xin phép Đức Chúa Trời trước khi hắn có thể bày ra nổi khổ lớn lao cho vị thánh đồ nầy. Trong khi Satan là cái cớ của sự Gióp chịu khổ, Satan không thể làm gì được nếu không có phép của Đức Chúa Trời. Gióp đã chịu khổ nơi tay của Satan, chỉ vì Đức Chúa Trời đã cho phép như thế. Tôi giả định rằng điều đó là thực trong phân đoạn Kinh thánh gốc của chúng ta và, vì vậy, tác giả có thể nói tới điều nầy là “Đức Giêhôva khiến một ác thần đến”. Đức Chúa Trời không phải là cái cớ trực tiếp trong mọi rối rắm của Saulơ, nhưng Ngài là Đấng đang toàn quyền tể trị trong muôn vật. Điều nầy khác biệt với những gì chúng ta thấy có trong Tân Ước:

“Đang bữa ăn tối (ma quỉ đã để mưu phản Ngài vào lòng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt con trai Si-môn)” (Giăng 13:2).

“Liền khi Giu-đa đã lấy miếng bánh, thì quỉ Sa-tan vào lòng người. Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng người rằng: Sự ngươi làm hãy làm mau đi” (Giăng 13:27).

“rằng, một người như thế phải phó cho quỉ Sa tan, để hủy hoại phần xác thịt, hầu cho linh hồn được cứu trong ngày Đức Chúa Jêsus” (I Côrinhtô 5:5).

Dòng sau cùng cho thấy rằng Đức Chúa Trời đang tể trị, và chẳng một điều gì diễn ra đi ngược lại với mục đích và chương trình thiêng liêng của Ngài. Một ác thần có thể khuấy khuất một người chỉ vì Đức Chúa Trời cho phép điều đó, và trong ý nghĩa ấy, có thể nói rằng “Đức Giêhôva khiến một ác thần đến”. Tôi cũng muốn chỉ ra rằng bởi tánh tình ghen tỵ và cơn giận không kềm chế được của Saulơ, ông ta đã mở lòng mình ra cho hoạt động của Satan.

Chúng ta không phải là không nhìn thấy bàn tay tể trị của Đức Chúa Trời trong mọi điều nầy. Saulơ giờ đây là đối tượng cho những cơn điên tiết khi bị ma quỉ khuấy khuất. Các tôi tớ của ông đã nhận ra tự nhiên sự việc nầy là thuộc về ma quỉ, và họ dường như nhìn biết âm nhạc có đôi lúc làm cho một tâm thần bị khuấy khuất như tâm thần của Saulơ sẽ nguôi dịu đi. Vì vậy, họ đã tuyển David, là một nhạc sĩ có tài, đến chơi đàn lia và nhơn đó làm cho tâm linh đầy rối rắm của Saulơ được bình lặng trở lại. Kết quả cuối cùng là đây – David đã được giới thiệu vào ban lễ tân của hoàng gia, học biết công việc trong những ngày tháng rồi đây ông sẽ trở thành vua.

Người ta có thể cho rằng tất cả các hành động tội lỗi của Saulơ đều là kết quả của sự “thay đổi tâm thần” nầy, nhưng tôi không tin đây là trường hợp đâu. Chúng ta hãy nhớ, hai tội lỗi “cướp mất vương quốc” mà Saulơ đã phạm trước khi “ác thần” hiện đến và đã phạm trước khi Đức Thánh Linh ra khỏi! Hơn nữa, “ác thần” không thường xuyên khuấy khuất Saulơ, song thay vì thế, “ác thần” đến rồi đi. Ác thần đã giục giã Saulơ phóng mũi giáo vào David (18:10-11; 19:9-10), nhưng các hành vi khác của Saulơ dường như đã đến từ chính mình Saulơ (20:30-33).

Thật là quan trọng cho chúng ta khi để ý thấy cơn giận ghen tương và không kềm chế được của Saulơ không thình lình nổi lên khi Saulơ nhận ra David là người sẽ thay thế mình. Saulơ đã bị quỉ ám và là đối tượng cho những cơn giận điên tiết, trước khi ông nhìn biết David sẽ thay thế ông. David không khiến cho Saulơ phải trở nên như thế; Saulơ đã ở trong trạng thái đó, thậm chí ngay trước thời điểm Thánh Linh của Đức Chúa Trời lìa khỏi người. Trước khi David được xức dầu, cả Samuên và các trưởng lão của thành Bếtlêhem đã e sợ rồi (16:2, 4). Tôi nghĩ một người có thể cho tình hình nầy là vì tội lỗi của Saulơ đã mở cửa cho sự dính dáng của Satan. Đôi khi chúng ta mau mắn đổ thừa cho Satan về tội lỗi của mình, đang khi chúng ta chính là nguồn gốc. Theo ý của tôi, “ác thần” đã làm nổi bật tội lỗi của Saulơ.

Một người phù hợp với ngôi vị: David và Gôliát (I Samuên 17)

Vua của Israel cần phải là một người biết lãnh đạo dân tộc trong chiến tranh:

“Chúng tôi muốn như các dân tộc khác; vua chúng tôi sẽ đoán xét chúng tôi, đi trước đầu chúng tôi, mà đánh giặc cho chúng tôi” (I Samuên 8:20).

“Sa-mu-ên lấy một ve nhỏ đựng dầu, đổ trên đầu Sau-lơ, hôn người, mà nói rằng: Nầy Đức Giê-hô-va đã xức dầu cho ngươi đặng ngươi làm vua của cơ nghiệp Ngài” (I Samuên 10:1).

Cả hai tội lỗi chính của Saulơ đều có quan hệ với việc lãnh đạo quân đội của Israel. Ở chương 17, chúng ta sẽ thấy thể nào Saulơ đã thất bại không thể hiện được bổn phận của mình trong địa vị làm vua, và thể nào David đã chu toàn các trách nhiệm là vua mới được xức dầu của Đức Chúa Trời. “Dân Phi-li-tin nhóm hiệp các đạo binh mình đặng làm giặc, chúng nó hiệp tại Sô-cô, thuộc về xứ Giu-đa, và đóng trại tại Ê-phê-Đa-mim, giữa Sô-cô và A-xê-ca. Sau-lơ và người Y-sơ-ra-ên cũng nhóm hiệp, đóng trại tại trũng Ê-la, và dàn trận cùng dân Phi-li-tin. Dân Phi-li-tin đứng trên núi phía nầy, còn Y-sơ-ra-ên đứng trên núi phía kia; trũng phân cách họ. Bấy giờ, có một người lực sĩ từ trại quân Phi-li-tin mà ra, tên là Gô-li-át, quê ở Gát; bề cao người sáu thước một gang. Người đội mão đồng trên đầu, mặc áo giáp đồng vảy cá, nặng năm ngàn siếc-lơ, và những ủng đồng; sau lưng treo một cây lao đồng. Cán của cây lao hắn như cây trục của thợ dệt cửi, và mũi của cây lao nầy nặng sáu trăm siếc-lơ. Kẻ vác binh khí hắn đi trước hắn. Vậy, hắn ra đứng kêu la cùng đội ngũ Y-sơ-ra-ên rằng: Cớ sao các ngươi ra bày trận? Ta há chẳng phải là người Phi-li-tin, còn các ngươi, là tôi tớ của Sau-lơ sao? Hãy chọn một người trong các ngươi xuống đấu địch cùng ta. Nếu khi đấu địch cùng ta, hắn trổi hơn và giết ta, thì chúng ta sẽ làm tôi tớ các ngươi; nhưng nếu ta trổi hơn hắn và ta giết hắn, thì các ngươi sẽ làm tôi chúng ta, và hầu việc chúng ta. Người Phi-li-tin lại còn nói rằng: Phải, ngày nay ta thách lời nầy cho đội ngũ Y-sơ-ra-ên: Hãy khiến một người ra, đặng chúng ta đấu địch cùng nhau. Sau-lơ và cả Y-sơ-ra-ên nghe những lời của người Phi-li-tin, thì lấy làm hoảng hồn, sợ hãi lắm” (I Samuên 17:1-11).

Saulơ là người phải lãnh đạo binh lính của mình ra trận. Ông cũng là “Gôliát” của Israel, vì ông đứng đầu và vai cao hơn những người khác (I Samuên 9:2; 10:23). Saulơ là nhà vô địch của binh lính Israel, tuy nhiên người ta không thấy ông ta ở tuyến đầu của chiến trường, mà chỉ thấy ông ở một khoảng cách xa xa. Vào thời điểm mà binh lính cần Saulơ nhiều nhất, thì ông ta đầy ắp với sợ hãi. Cho nên chẳng có gì phải ngạc nhiên khi binh lính của ông ta cũng e sợ nữa (17:11, 24).

Dân Israel và dân Philitin đối mặt nhau, mỗi phe ở một bên sườn núi, có một trũng phân cách với dòng suối chảy qua đó (17:1-3, 40). Trong bốn mươi ngày, hai đội quân nầy đã đối mặt với nhau. Dân Israel dường như e sợ họ sẽ không đánh bại được dân Philitin. Tôi lo dân Philitin đang ra sức dụ dân Israel xuống khỏi sườn núi, hầu cho họ có thể dùng xe ngựa của họ ở trong trũng (so sánh II Samuên 18:8; I Các Vua 20:23). Dân Israel dường như đã im lặng, còn Gôliát thì kiêu căng và phạm thượng.

Gôliát chắc chắn là một tay giềnh giàng, nhưng bất kỳ người Israel nào, họ quá quen thuộc với lịch sử và với Lời của Đức Chúa Trời, sẽ không lay động. Ở Sáng thế ký 12:3, Đức Chúa Trời nói rõ Ngài sẽ xử lý với kẻ nào rủa sả dân sự của Ngài. Sự kiện tại Cađe, được ghi lại ở Dân số ký 13, hết thảy đều nói tới nổi sợ của dân Israel đối với những gã giềnh giàng trong xứ Canaan. Nhưng Đức Chúa Trời đã hứa phó những gã giềnh giàng nầy vào trong tay của họ, và Ngài đã làm thế. Lời cầu nguyện của Anne ở chương 2 cũng nhắc tới vấn đề nầy:

“Vì các trụ của trái đất thuộc về Đức Giê-hô-va: Ngài đã đặt thế gian ở trên đó. Đức Giê-hô-va sẽ giữ chân của các thánh Ngài; Còn những kẻ ác sẽ bị hư mất nơi tăm tối; Vì chẳng do sức riêng mình mà người nào được thắng” (I Samuên 2:9-10).

Ở chương 14, Giônathan đã đối diện với một tình huống tương tự, nhưng ông không để cho các lợi thế đối nghịch ấy giữ ông không đánh trận với người Philitin:

“Ở giữa đèo mà Giô-na-than gắng sức đi đặng đến đồn Phi-li-tin, có một răng đá ở bên nầy, và một răng ở bên kia; cái nầy gọi là Bốt-sết, còn cái kia gọi là Sê-nê. Một cái răng đá mọc lên về phía bắc, đối ngang Mích-ma, còn cái kia ở tại phía nam, đối ngang Ghê-ba. Giô-na-than nói cùng kẻ vác binh khí mình rằng: Hè, chúng ta hãy hãm đồn của những kẻ chẳng chịu cắt bì kia. Hoặc giả Đức Giê-hô-va sẽ hành sự vì chúng ta chăng; vì Đức Giê-hô-va khiến cho số ít người được thắng cũng như số đông người vậy” (I Samuên 14:4-6).

Đây là tình huống đòi hỏi đức tin nơi Đức Chúa Trời của Israel, và Saulơ đã thiếu đức tin ấy. Sự thể đòi hỏi một người khác, là người có đức tin lớn hơn, biết chổi dậy đánh với Gôliát và dân Philitin. Đức Chúa Trời đã dàn dựng các biến cố theo cách thiêng liêng để cho David thấy và nghe những lời lẽ phạm thượng của Gôliát trước tiên. Cha của ông đã sai ông đi kiểm tra mọi sự có cần của ba người con trai lớn của ông, họ đang đánh nhau với dân Philitin dưới quyền lãnh đạo của Saulơ:

“Đa-vít cất gánh nặng mình giao cho người giữ đồ vật, đoạn chạy đến chỗ dàn trận, tới hỏi thăm ba anh mình mạnh giỏi chăng. Người đang nói chuyện cùng chúng, kìa người lực sĩ Gô-li-át, tức là người Phi-li-tin ở Gát, từ hàng ngũ Phi-li-tin xơm tới, và Đa-vít nghe hắn nói như những lời ngày trước. Hết thảy người Y-sơ-ra-ên thấy người nầy, đều chạy trốn và run sợ lắm” (I Samuên 17:22-24).

Dân Israel đã quen thuộc với vẻ huênh hoang của Gôliát, còn David mới nhận ra sự việc khi nó xảy ra. Ông vốn biết rõ phải có người chống đối Gôliát và bắt hắn phải im lặng:

“Đa-vít hỏi những người ở gần mình rằng: Người ta sẽ đãi thể nào cho kẻ giết được người Phi-li-tin nầy, và cất sự sỉ nhục khỏi Y-sơ-ra-ên? Vì người Phi-li-tin nầy, kẻ chẳng chịu phép cắt bì nầy, là ai, mà lại dám sỉ nhục đạo binh của Đức Chúa Trời hằng sống? Người ta lấy lời thường nói ấy mà đáp cùng người rằng: Ai giết được hắn thì phần thưởng sẽ là như vậy” (I Samuên 17:26-27).

Anh cả của David đã khởi tức giận bởi lời lẽ của David. Chắc chắn họ sẽ không nguôi cho tới khi về nhà. Tại sao không có ai chổi dậy đặng khóa mồm của gã Philitin nầy? Vì thế Êliáp nóng nảy vặn lại:

“Cớ sao mày đến đây? Mày bỏ ít con chiên của chúng ta trong đồng vắng cho ai? Tao biết tánh kiêu ngạo và sự độc ác của lòng mày. Ấy đặng xem tranh chiến nên mày mới đến” (I Samuên 17:28).

Đúng là một sự miệt khinh hoàn toàn mà Êliáp đã có đối với David. Nhiều người khác có thể tiến cử David cho Saulơ như một “chiến sĩ mạnh bạo” (16:18), nhưng Êliáp thì không. Chúng ta không nên quên rằng Êliáp đã bị Samuên cho qua (và cả Đức Chúa Trời nữa), là người đã xức dầu cho David làm vua kế vị của Israel (I Samuên 16:6-7). Mọi điều Êliáp có thể nghe thấy từ lời lẽ của David đều là tánh tò mò và thậm chí dại dột của một đứa trẻ. Có lẽ giờ đây chúng ta nhìn thấy lý do tại sao Đức Chúa Trời mau chóng cho Êliáp qua.

Saulơ đã đáp ứng bằng một tư thế rất khác biệt. Ai đó đã cho nhà vua hay rằng có một người bằng lòng chổi dậy chống nghịch Gôliát. Saulơ dường như nắm lấy điều nầy đang khi thất vọng lắm – bất cứ ai trừ ông ta ra có thể đánh trận với Gôliát. Saulơ không chú ý tới tuổi trẻ của David, và thậm chí ông ta tìm cách làm cho David nản lòng không đánh nhau với Gôliát:

“Đa-vít thưa với Sau-lơ rằng: Xin chớ ai ngã lòng vì cớ người Phi-li-tin kia! Kẻ tôi tớ vua sẽ đi đấu địch cùng hắn. Sau-lơ đáp cùng Đa-vít rằng: Ngươi chẳng thế đi đấu địch cùng người Phi-li-tin kia, vì ngươi chỉ là một đứa con trẻ, còn hắn là một tay chiến sĩ từ thuở còn thơ” (I Samuên 17:32-33).

David nói cho Saulơ biết rằng ông đã được chuẩn bị cho cái ngày nầy, khi ông chổi dậy trước những kẻ thù có ý đồ bắt phục, trong lúc chăn giữ bầy chiên của cha mình, một công việc đơn sơ và vô nghĩa, Êliáp đã nghĩ như thế, (xem 17:28). Đức Chúa Trời đã ban cho David thắng hơn con sư tử và con gấu. Đức Chúa Trời sẽ làm y như thế với Gôliát, đặc biệt kể từ khi tiếng tăm của hắn ta nổi như cồn kia:

“Tôi tớ vua đã đánh chết con sư tử và con gấu, vậy thì người Phi-li-tin không chịu phép cắt bì kia cũng sẽ đồng số phận với chúng nó; vì hắn đã sỉ nhục các đạo binh của Đức Chúa Trời hằng sống. Đa-vít lại nói: Đức Giê-hô-va đã giải cứu tôi khỏi vấu sư tử và khỏi cẳng gấu, ắt sẽ giải cứu tôi khỏi tay người Phi-li-tin kia. Sau-lơ đáp rằng: Hãy đi, nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi!” (I Samuên 17:36-37).

Saulơ đã tin tưởng. Điều nầy thật đáng kinh ngạc, một khi các hành động của David như muốn mau mau có một sự đối đầu chính thức. Vì bất cứ lý do nào đi nữa, Saulơ để cho David ra đi với những lời chúc phước của ông ta. Ông ta cũng đã hiến cho David chiếc áo giáp của mình, nhưng chiếc áo ấy rộng quá đối với David. Đúng là phải có một lời quở trách cho Saulơ khi nhìn vào David, đang mặc lấy cái áo giáp của ông, sốt sắng muốn thực hiện phần việc thuộc về ông ta và rồi, nhìn thấy “đứa trẻ” nầy với một bộ áo giáp chiếu theo vóc dáng của Saulơ, như một sự nhắc nhớ ông ta là gã khổng lồ của Israel, là người phải đánh nhau với Gôliát.

David đã quyết định đi đánh Gôliát với các thứ vũ khí mà chàng đã dùng trước đó. David đã nhanh chóng bước ra tuyến đầu để đối mặt với Gôliát. Chàng chẳng có vũ khí, chẳng có gươm, chỉ có cây trượng, cái trành ném đá cùng cái túi của gã chăn chiên mà thôi, trong túi ấy có năm hòn đá bóng láng. Khi Gôliát nhận ra chỉ là một gã thiếu niên đối mặt với hắn ta, hắn bực tức và giận dữ. Đúng là một sự sỉ nhục, khi sai một đứa trẻ đến đấu với nhà vô địch của dân Philitin. Tác giả nói rõ đây là một vấn đề thuộc diện thuộc linh:

“Người Phi-li-tin nói cùng Đa-vít rằng: Ta há là một con chó nên người cầm gậy đến cùng ta? Người Phi-li-tin bắt danh các thần mình mà rủa sả Đa-vít, và tiếp rằng: Hãy lại đây, ta sẽ ban thịt ngươi cho chim trời và thú đồng. Đa-vít đáp cùng người Phi-li-tin rằng: Ngươi cầm gươm, giáo, lao mà đến cùng ta; còn ta, ta nhân danh Đức Giê-hô-va vạn binh mà đến, tức là Đức Chúa Trời của đạo binh Y-sơ-ra-ên, mà ngươi đã sỉ nhục. Ngày nay Đức Giê-hô-va sẽ phó ngươi vào tay ta, ta sẽ giết ngươi, cắt đầu ngươi, và ngày nay ban thây của đạo binh Phi-li-tin cho chim trời và thú vật của đất. Khắp thế gian sẽ biết rằng Y-sơ-ra-ên có một Đức Chúa Trời; và quân lính nầy sẽ thấy rằng Đức Giê-hô-va không giải cứu bằng gươm, hoặc bằng giáo; vì Đức Giê-hô-va là Chúa của chiến trận, và Ngài sẽ phó các ngươi vào tay chúng ta” (I Samuên 17:43-47).

David chạy về phía Gôliát, cái trành xoắn tít trên không. Nhiều năm thực hành (chưa nhắc tới bàn tay của Đức Chúa Trời) đã sửa soạn David cho thời điểm nầy. Chúng ta biết một số người Do thái sử dụng cái trành ném đá rất là hay (Các Quan Xét 20:16). Hòn đá được tận dụng đặc biệt và đánh trúng mục tiêu của nó – ngay trán của gã giềnh giàng. Hòn đá cắm sâu đủ làm cho Gôliát phải bất tỉnh. Điều nầy cung ứng cho David thời gian để chạy tới bên gã giềnh giàng nầy, “mượn” lấy thanh gươm, rồi cắt lấy đầu hắn, trước khi hắn có thể tự vệ được. Dân Israel bắt đầu truy kích dân Philitin. David đem cái đầu của Gôliát về cho Saulơ, ông ta đã đứng nhìn từ một khoảng xa xa, và rồi hỏi thăm về lai lịch của cha David.

Tiếng tăm của David và nổi sợ hãi của Saulơ

Sự David thắng hơn Saulơ đã đẩy chàng vào chỗ nổi bật ngay tức khắc, sự việc giống như đức tin và cái chết can đảm của Cassie Bernall, cô gái 17 tuổi đã bị bắn ở Trường Trung Học Columbine tại Littleton, bang Colorado. Nhưng khi David có được thêm nhiều tiếng tăm hơn nữa, Saulơ đã đạt tới chỗ lo sợ chàng. David được nhiều người yêu mến, cả Giônathan, con trai của Saulơ (1-4), và Micanh, con gái của ông ta nữa (18:20). Saulơ, vẫn không bằng lòng lãnh đạo quân đội Israel ra trận, đặt David nắm quyền binh lính của ông ta. Điều nầy được binh sĩ và bộ chỉ huy của Saulơ hoan nghênh. Sau cùng có nhiều việc lên tới hàng đầu khi Saulơ nghe được mấy người phụ nữ hát ngợi khen David sau khi thắng trận:

“Khi Đa-vít đã giết được người Phi-li-tin, trở về cùng đạo binh, thì những người nữ của các thành Y-sơ-ra-ên đi ra đón Sau-lơ, hát múa, đánh trống cơm, gõ nhịp, và reo tiếng vui mừng. Những người múa đối đáp nhau rằng: Sau-lơ giết hàng ngàn, Còn Đa-vít giết hàng vạn!” (I Samuên 18:6-7).

Đấy là gợi ý sau cùng về Saulơ, giờ đây ông nhìn xem David là một kẻ thách thức đối với ngôi vua:

“Sau-lơ lấy làm giận lắm, và các lời nầy không đẹp lòng người. Người nói: Người ta cho Đa-vít hàng vạn, còn ta hàng ngàn; chỉ còn thiếu cho nó ngôi nước mà thôi! Kể từ ngày ấy, Sau-lơ thường ngó Đa-vít cách giận” (I Samuên 18:8-9).

Theo một ý nghĩa, Saulơ đã tuyệt đối đúng – David là người sẽ trở thành vua của Israel trong chỗ của ông. Nhưng ông đã sai khi không tin tưởng David, mặc dù ông đang tìm cách hất David ra khỏi ngai vàng của ông. Sự ghen ghét đã bắt lấy Saulơ, và ông tìm cách giết David với một mũi giáo khi David chơi đàn lia yên ủi cho ông ta trong cung điện.

Từ thời điểm nầy trở đi, Saulơ đã âm mưu hòng mang lại sự chết cho David. Vào lúc đầu, ông ta đã thử phương pháp gián tiếp. Ông ta khích lệ David đi ra trận với các kẻ thù của Israel, hy vọng rằng David sẽ bị giết chết tại chiến trường. Thậm chí Saulơ đã hiến con gái mình cho David làm vợ, nếu chàng chỉ tỏ ra can đảm trong chiến trận. Thay vì ngã chết tại chiến trường, David đã gặt hái hết thành công nầy đến thành công khác, rồi được lòng dân chúng. Chương trình của Saulơ đã đem lại kết quả ngược lại với mong đợi. Khi David giết 200 người Philitin như một của lễ hồi môn, Saulơ phải trao Micanh cho chàng, là con gái của ông ta trong hôn nhân. Nổi sợ hãi của chỉ được nhân rộng ra thêm mà thôi.

Sau cùng, Saulơ quyết định ông phải sử dụng phương án trực tiếp. Ông ra lịnh cho các tôi tớ mình phải giết chết David (19:1). Giônathan rất quan tâm đến bạn mình là David, và chàng đã cảnh báo cho David biết rằng cha của chàng đang tìm cách để giết David. Giônathan cũng nói với cha mình và nhất thời khuyên ông ta rằng David là một tôi tớ trung thành. Saulơ thề không hãm hại David nữa. Điều nầy kết thúc cho tới chừng David một lần nữa ra trận và đã có sự thành công lớn lao. Tánh ghen tuông của Saulơ, được châm thêm nhiên liệu bởi một ác thần, đã giục ông nổ lực đưa David đến chỗ chết với mũi giáo của ông ta lần thứ hai. Khi ấy, Saulơ sai các tôi tớ mình đến nhà của David để bắt lấy rồi giết chết chàng đi. Với sự trợ giúp của Micanh, David đã có thể thoát đi. David đã trốn đến Samuên rồi thuật cho ông biết mọi sự đã xảy ra. Saulơ hay rằng David và Samuên có mặt tại Rama rồi gửi một đội quân có vũ trang đến bắt David. Nhưng mỗi lần đội quân ấy đến, họ đều nói tiên tri. Ai, dưới quyền điều khiển của Thánh Linh Đức Chúa Trời, có thể bắt được người chịu xức dầu của Đức Chúa Trời? Sau cùng, khi việc gửi các sứ giả đến lần thứ ba không thành công, chính mình Saulơ đã ra đi, chỉ để bị Đức Thánh Linh thắng hơn và bản thân ông đã nói tiên tri (19:23-24). Bạn không lấy làm lạ khi Saulơ nói tiên tri sao? Tôi lấy làm lạ một khi ông ta nói tiên tri rằng quả thực David sẽ trở thành vua kế đó của Israel?

David trở thành kẻ lánh nạn

Khi nhìn biết Saulơ một lần nữa sẽ tìm cách giết chàng, David trốn đến Nai-ốt trong xứ Rama. Ở đây, David kín đáo gặp gỡ Giônathan, Giônathan quyết chắc với chàng rằng Giônathan không để cho cha mình hãm hại chàng. Giônathan hứa với David rằng mình sẽ tìm cách khám phá ra mọi dự tính của cha mình y như David quan tâm. Saulơ trở nên giận dữ với Giônathan đến nỗi ông ta cũng tìm cách giết chết Giônathan:

“Bấy giờ, Sau-lơ nổi giận cùng Giô-na-than, mà rằng: Ớ con trai gian tà và bội nghịch kia, ta biết mầy có kết bạn cùng con trai của Y-sai, đáng hổ nhục cho mầy, và đáng hổ nhục cho mẹ đã đẻ mầy thay! Thật, hễ con trai Y-sai sống lâu trên mặt đất chừng nào, thì mầy và nước mầy chẳng vững bền chừng nấy. Vậy bây giờ, hãy sai đi kiếm nó, dẫn nó về cho ta; vì nó phải chết hẳn. Giô-na-than thưa cùng Sau-lơ, cha mình, rằng: Cớ sao giết nó đi? Nó có làm điều gì? Sau-lơ phóng cây giáo đặng đâm người; Giô-na-than bèn nhìn biết cha mình đã nhất định giết Đa-vít” (I Samuên 20:30-33).

David và Giônathan khi ấy kín đáo gặp nhau một lần nữa. Giônathan báo cho David biết mọi dự tính của Saulơ rồi giục chàng nên rời đi, nhưng với một hiệp ước hòa bình giữa họ:

“Giô-na-than nói cùng Đa-vít rằng: Anh hãy đi bình an; chúng ta đã nhân danh Đức Giê-hô-va lập lời thề cùng nhau rằng: Đức Giê-hô-va sẽ làm chứng giữa tôi và anh, giữa dòng dõi tôi và dòng dõi anh đến đời đời. 20-43 Vậy, Đa-vít chổi dậy và đi, còn Giô-na-than trở vào trong thành” (I Samuên 20:42).

Từ thời điểm nầy trở đi, David đã đủ yếu tố để trở thành một kẻ lánh nạn. Chàng trốn tránh hết nơi nầy đến nơi khác, chỉ một vài bước là đụng phải Saulơ. Đây là chỗ mà chúng ta đến với “điểm tốt nhứt trong mọi thời kỳ” và là “điểm tệ hại nhứt trong mọi thời kỳ”. Sự thể cho thấy không luôn luôn là thời điểm tốt lành cho David, vì đôi lúc chàng e sợ rồi đưa ra những sự lựa chọn dường như không khôn ngoan hay tin kính mấy. Một trong những lỗi lầm của chàng phải trả giá bằng nhiều sinh mạng. Ở chương 21, David trốn đến Ahimêléc, thầy tế lễ tại Nốp. David đã không nói chơn thật với Ahimêléc. Chàng nói với thầy tế lễ rằng Saulơ đã sai ông đi để thực hiện một sứ mệnh bí mật. David đã hỏi xin một thanh gươm và được trao cho thanh gươm của Gôliát, là gươm mà chàng đã lấy từ người Philitin khi chàng giết hắn. Chàng cũng hỏi xin bánh và được trao cho mấy ổ bánh trần thiết thường được để dành cho các thầy tế lễ cùng gia đình của họ. Đô-e, người Ê-đôm, đã có mặt ở đó và hắn nhìn thấy David. Khi Đô-e về sau báo tin nầy cho Saulơ, các thầy tế lễ cùng gia đình của họ đã bị giết chết, mặc dù họ chẳng làm gì sai trái cả.

Hai lần David trốn đến xứ Philitin, và cả hai lần đến nầy đều cho thấy đấy là một lỗi lầm. Ở chương 21, David đi đến xứ Gát rồi tìm nơi trốn tránh với A-kích, là vua xứ Gát. Chính bài ca nầy một lần nữa đưa David vào chỗ rối rắm:

“Bấy giờ, Đa-vít chổi dậy, ngày đó trốn xa khỏi Sau-lơ; mà đi đến cùng A-kích, vua Gát. Các tôi tớ của A-kích hỏi rằng: Có phải đó là Đa-vít, vua của xứ ấy chăng? Há chẳng phải về người nầy mà bọn nữ có nói trong khi múa hát rằng: "Sau-lơ giết hàng ngàn, Còn Đa-vít giết hàng vạn?" Đa-vít để các lời nầy vào trong lòng mình, và rất sợ A-kích, vua Gát. Người giả đò điên cuồng trước mặt chúng, và làm bộ dại khờ giữa họ; người vẽ gạch dấu trên cửa và để nước miếng chảy trên râu mình. A-kích nói cùng tôi tớ mình rằng: Kìa, các ngươi thấy người đó điên cuồng! Cớ sao các ngươi dẫn nó đến ta? Nơi ta há thiếu kẻ điên sao, nên các ngươi phải dẫn kẻ nầy đến ta đặng nó bày sự kỳ cục trước mặt ta? Một người như vậy chẳng nên vào nhà ta” (I Samuên 21:10-15).

Sau đó, David lần thứ hai trốn đến vua xứ Gát, cùng với 600 người của chàng (I Samuên 27:1-12; 29:1-11; 30:1-31). David nói với A-kích rằng chàng không muốn trở thành gánh nặng cho ông ta và xin một chỗ mà ở đó, chàng và người của chàng, cùng gia đình họ có thể sinh sống được. Nhà vua ban cho chàng thành Xiếc-lác. Do khéo léo đánh lừa, David đã thuyết phục A-kích rằng chàng và người của mình đang nhắm tới các thành của dân Israel, nhơn đó cách xa lợi ích của người Philitin. Kế hoạch của David hiển nhiên đem lại kết quả ngược lại với sự mong đợi trong hai phương thức. Thứ nhứt, thành Xiếc-lác bị một toán quân Amaléc đột kích, và mọi gia đình, của cải của David cùng người của mình đã bị bắt đi làm phu tù và bị chiếm lấy như chiến lợi phẩm. Thứ hai, khi dân Philitin ra trận đánh với người Israel, David và người của chàng đã tránh né không ra trận với họ.

David đã có một số thời điểm tăm tối trong những năm tháng chàng trốn tránh Saulơ, nhưng cũng có một số điểm sáng láng. Khi David còn là người đi lánh nạn, bạn hữu chơn thật của David đã liều nguy hiểm cùng đứng chung với chàng. Giônathan đã tìm gặp David thêm một cơ hội nữa để khích lệ chàng:

“Bấy giờ, Giô-na-than, con trai của Sau-lơ đứng dậy, đi đến cùng Đa-vít ở trong rừng, làm cho người vững lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, mà rằng: Chớ sợ chi, vì tay của Sau-lơ, cha tôi, sẽ chẳng đụng đến anh đâu. Anh sẽ làm vua Y-sơ-ra-ên, còn tôi sẽ làm tể tướng anh; Sau-lơ, cha tôi, cũng biết rõ điều đó. Hai người cùng lập giao ước tại trước mặt Đức Giê-hô-va; đoạn, Đa-vít ở lại trong rừng, còn Giô-na-than trở về nhà mình” (I Samuên 23:16-18).

Abigain cũng khích lệ David rồi trình cho ông một mưu luận rất hay: “Xin hãy tha lỗi cho con đòi chúa! Đức Giê-hô-va quả hẳn sẽ lập nhà chúa được bền lâu, vì chúa đánh giặc cho Đức Giê-hô-va, và trọn đời chúa sẽ chẳng tìm thấy một sự ác nơi chúa. Nếu có ai dấy lên đặng bắt bớ và hại mạng sống chúa, thì Giê-hô-va đức Chúa Trời của chúa sẽ gìn giữ mạng sống của chúa trong bọc những người sống; còn mạng sống của kẻ thù nghịch chúa, Đức Giê-hô-va sẽ ném ra xa như khỏi trành ném đá vậy. Khi đức Giê-hô-va đã làm cho chúa tôi mọi sự lành mà Ngài đã hứa, và khi Ngài đã lập người làm đầu Y-sơ-ra-ên, thì ước gì chúa tôi không phàn nàn và không bị lòng cắn rức vì đã vô cớ làm đổ máu ra và báo thù cho mình! Lại khi Đức Giê-hô-va đã làm ơn cho chúa tôi, nguyện chúa nhớ đến con đòi của chúa!” (I Samuên 25:28-31).

Na-banh, chồng của Abigain, thực sự là một kẻ dại. Khi David yêu cầu một dấu hiệu về sự cảm kích, ông ta đã tỏ ý khinh bỉ David và lời yêu cầu của chàng. Đây không phải là một lỗi suông đâu, vì Na-banh vốn biết rõ David là ai rồi:

“Nhưng Na-banh đáp cùng các tôi tớ Đa-vít rằng: Ai là Đa-vít? Ai là con trai của Y-sai? Những tôi tớ trốn khỏi chủ mình, ngày nay lấy làm đông thay! Lẽ nào ta sẽ lấy bánh, nước, và thịt ta dọn sẵn cho các thợ hớt lông chiên mà cho những kẻ chẳng biết ở đâu đến sao?” (I Samuên 25:10-11).

Sự điên dại của Na-banh thực hiển nhiên khi lời lẽ của ông ta ở các câu 10 và 11 được sánh với lời lẽ của Abigain ở các câu 28-31. Nàng biết rõ David sẽ trở thành vua kế tiếp của Israel, và nàng đã tiếp đãi thích đáng với chàng. Na-banh đã từ chối không nhận David là vua kế đó của Israel, và ông ta đã đáp ứng thật thích đáng với sự ấy. Khi Abigain cầu thay với David, trên đường ông đến giết hết mọi người nam trong nhà của Na-banh, nàng đã minh chứng mình là một sự khích lệ quan trọng đối với chàng.

Thậm chí Saulơ cũng là một sự khích lệ đối với David nữa. Khi David liều mạng sống mình kêu nài với Saulơ, ông ta đã đáp ứng với lời lẽ nầy:

“Khi người nào gặp kẻ thù nghịch mình, há để cho nó đi bình yên vô sự sao? Nguyện Đức Giê-hô-va lấy điều thiện báo cho con về sự con đã làm cho cha ngày nay! Quả hẳn ta biết rằng con sẽ làm vua, và nước Y-sơ-ra-ên sẽ bền lâu ở trong tay con” (I Samuên 24:20-21).

Đúng là một sự khích lệ khi nghe thấy lời lẽ ra từ môi miệng của Saulơ. Saulơ vốn biết rõ rằng David quả thực sẽ trở thành vua một ngày kia, chiếm lấy chỗ của ông ta. Sau khi nghe mọi sự nầy ra từ Saulơ, đấy là một sự khích lệ cho David trong những thời khắc tối tăm.

David đã có những giây phút hồ nghi và thất vọng:

“Đa-vít nói thầm nghĩ rằng: Chắc một ngày kia, ta sẽ chết bởi tay Sau-lơ. Ta chẳng làm chi hay hơn bằng trốn trong xứ Phi-li-tin, thì Sau-lơ sẽ chẳng còn kiếm ta trong cả địa phận Y-sơ-ra-ên nữa. Như vậy, ta sẽ thoát khỏi tay người” (I Samuên 27:1).

Nhưng những thời khắc như thế nầy đã trôi qua. Chính trong những ngày mà Saulơ tìm cách giết chết David, điều nầy khiến cho David chổi dậy trong từng cơ hội. Có một số thời điểm tốt nhứt của David. David đã tỏ ra sắc màu thật của mình khi mọi hoàn cảnh của chàng đã cung ứng cho chàng cơ hội để giết chết Saulơ và khi người của chàng giục chàng nắm lấy thời điểm ấy.

Trường hợp thứ nhứt được ghi lại ở I Samuên 24. David và người của chàng đang ẩn trốn Saulơ trong một hang động. Khi ấy, Saulơ đã dừng quân tại chính địa điểm nầy để nghỉ ngơi. Bạn có thể tưởng tượng cảm xúc như thế nào khi thấy nhà vua ở gần như thế và biết rõ người của ông ta đang ở ngay bên ngoài. Nếu Saulơ biết họ có mặt ở đó, họ sẽ bị vây bắt thôi. Người của David nói cho chàng biết rằng Chúa đã ban cho chàng cơ hội nầy để giết chết Saulơ, song David đã từ chối:

“Đoạn lòng người tự trách về điều mình đã cắt vạt áo tơi của vua. Người nói cùng kẻ theo mình rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va chớ để ta phạm tội cùng chúa ta, là kẻ chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va, mà tra tay trên mình người, vì người là kẻ chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va” (I Samuên 24:6-7).

David đã đến gần Saulơ đủ để cắt một phần của áo ông ta, và rồi sau khi rời khỏi hang động, lương tâm David đã cáo trách. Chàng kêu nài với Saulơ và khiến cho ông ta biết rằng chàng đã được trao cho cơ hội để giết ông ta song chàng chẳng làm như vậy. Chàng muốn Saulơ nhìn biết rằng chàng vẫn là một tôi tớ trung thành của ông ta, và người nào nói với David tìm cách lấy mạng ông ta đều sai lầm hết. Saulơ bị chạm mạnh bởi hành động của David và yêu cầu David hứa rằng chàng sẽ không tiêu diệt cả nhà ông ta sau khi chàng lên làm vua. David đã hứa điều nầy với Saulơ, rồi họ chia tay. Không may, sự đổi lòng của Saulơ chỉ là nhất thời.

Cơ hội thứ hai cho David giết chết Saulơ được ghi lại ở I Samuên 26. Dân Xíp đã nộp David cho Saulơ bằng cách chỉ ra nơi chàng đang ẩn trốn. Khi Saulơ đến nơi, David đã sai do thám đi xác định trại quân của Saulơ. David, cùng với Abisai, em của Giôáp, lên đường đột nhập vào trại quân của Saulơ đang khi mọi người đều ngủ mê. Họ băng qua các lính gát khi ấy. Abisai rất muốn kết liễu mạng sống của Saulơ:

“A-bi-sai nói cùng Đa-vít rằng: Ngày nay Đức Chúa Trời đã phó kẻ thù nghịch ông vào tay ông. Xin cho phép tôi lấy giáo đâm người chỉ một cái mà cặm người xuống đất; chẳng cần phải đâm lại” (I Samuên 26:8).

Một lần nữa, David đã từ chối không nhấc tay lên nghịch cùng Saulơ, là người chịu xức dầu của Đức Giêhôva. Nếu Saulơ cần phải bị cất bỏ đi, thì Đức Chúa Trời sẽ là Đấng thực thi phần việc ấy: “Nhưng Đa-vít bảo A-bi-sai rằng: Đừng giết người; ai có thế tra tay trên kẻ chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va mà không bị phạt? Người tiếp rằng: Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống mà thề, Đức Giê-hô-va chắc sẽ đánh người, hoặc khi người đến kỳ định mà chết, hoặc khi người ra trận mà bị diệt vong. Nguyện Đức Giê-hô-va giữ, chớ cho tôi tra tay vào kẻ chịu xức dầu của Ngài! Ta xin ngươi chỉ hãy lấy cây giáo nơi đầu giường người cùng cái bình nước, rồi chúng ta hãy đi” (I Samuên 26:9-11).

Khi ấy David lấy ngọn giáo và bình nước của Saulơ, như minh chứng chàng đã đứng bên cạnh nhà vua đang khi ông ta cùng các lính gát của mình ngủ mê. Chàng kêu la cùng nhà vua, kêu gọi ông ta nhìn vào sự thực: khi chàng có cơ hội để giết chết ông ta, chàng đã không làm như vậy. Một lần nữa, Saulơ đã nhìn nhận mình sai lầm:

“Bấy giờ, Sau-lơ nói: Ta có phạm tội; hỡi Đa-vít, con ta, hãy trở lại! Ta sẽ chẳng làm hại cho con nữa, vì ngày nay, con đã kính nể mạng sống ta. Thật, ta đã làm điên cuồng, phạm một lỗi rất trọng. Đa-vít nói: Nầy là cây giáo của vua; hãy cho một gã trai trẻ của vua đi qua đây mà lấy đi. Đức Giê-hô-va sẽ báo trả cho mọi người tùy theo sự công bình và trung tín của người; vì ngày nay Ngài đã phó vua vào tay tôi, mà tôi không khứng tra tay vào đấng chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va. Ngày nay, tôi lấy mạng sống vua làm quí trọng thế nào, thì Đức Giê-hô-va cũng sẽ lấy mạng sống tôi làm quí trọng thể ấy, và giải cứu tôi khỏi các hoạn nạn. Sau-lơ nói cùng Đa-vít rằng: Hỡi Đa-vít, con ta, nguyện con được phước! Quả thật, con sẽ làm công việc lớn lao và được thắng hơn. Đoạn, Đa-vít cứ đi lối mình, còn Sau-lơ trở về nơi người” (I Samuên 26:21-25).

Cái chết của Saulơ

Câu chuyện nói tới cái chết của Saulơ là một câu chuyện rất thê thảm. Khi dân Philitin tập trung lại để đánh Israel, David và người của chàng hết thảy đều không thể trở thành một phần của chiến dịch nầy (28:1-2; 29:1-11). Saulơ lấy làm kinh khủng, và Samuên đã qua đời rồi. Đây là một trong những cơ hội hiếm hoi khi Saulơ tìm kiếm sự dẫn dắt về mặt thiêng liêng, song đã quá trễ rồi. Trong nổi thất vọng, Saulơ tìm kiếm sự hướng dẫn từ mồ mả. Saulơ không tìm kiếm sự hướng dẫn từ các tà thần, mà từ Samuên, vị tiên tri đã quá cố. Để thực hiện điều nầy, ông ta phải thuê một bà đồng cốt. Tất nhiên là điều nầy bị cấm đoán rõ ràng. Chính Saulơ đã dẹp bỏ đồng cốt và tà thuật ra khỏi xứ (28:3). Ông ta đã căn dặn các tôi tớ mình phải đi tìm một người đàn bà chuyên cầu vong ở Ênđôrơ. Tự cải trang, Saulơ đến gặp bà ta rồi xin bà ta cầu hồn Samuên lên. Người đàn bà lấy làm kinh khủng khi Samuên hiện ra. Từng dấu hiệu cho thấy thực sự đây chính là Samuên. Sứ điệp của ông dành cho Saulơ nhất định là chắc chắn. Ít nhất là lần nầy, ông không phải lo về việc Saulơ sẽ giết chết ông! Samuên báo cho Saulơ biết rằng Đức Chúa Trời đã xây lại nghịch cùng ông ta và ông ta phải ngã chết nơi chiến trận. Ngày mai, Đức Chúa Trời sẽ phó ông ta vào tay quân Philitin. Ông ta và các con trai sẽ ngã chết, và lời tiên tri của Đức Chúa Trời qua Samuên sẽ được ứng nghiệm.

Qua ngày sau, dân Philitin đã thắng hơn Saulơ và dân Israel. Ba người con của Saulơ, kể cả Giônathan, đều ngã chết (31:2). Cái chết của Saulơ không đến cách dễ dàng hay mau chóng. Mũi tên của cung thủ đã tìm gặp Saulơ và gây thương tích trầm trọng cho ông ta. Nhìn biết rằng mình sẽ chết, Saulơ nhờ kẻ mang binh khí cho mình mau mau giết chết ông ta, thay vì để ông ta sa vào tay của kẻ thù và ông ta sẽ bị hành hình. Kẻ mang binh khí của ông ta không dám giết nhà vua, và vì vậy Saulơ đã sấn vào chính thanh gươm của mình. Sự việc đã xảy ra như thế, chúng ta không nên tin theo lời gã trai trẻ người Amaléc:

“Người trai trẻ đem tin ấy thưa rằng: Tình cờ tôi đi qua núi Ghinh-bô-a, thấy Sau-lơ nương trên cây giáo mình. Xe và lính kị theo gần kịp người. Người xây lại thấy tôi và gọi tôi. Tôi thưa rằng: Có tôi đây. Người nói cùng tôi rằng: Ngươi là ai: Tôi thưa: Tôi là dân A-ma-léc. Người bèn tiếp: Hãy lại gần giết ta đi, vì ta bị xây xẩm, nhưng hãy còn sống. Vậy, tôi đến gần và giết người đi, vì tôi biết người bại trận, không còn sống được. Đoạn, tôi lấy mão triều thiên trên đầu người và vòng vàng nơi cánh tay người, mà đem về đây cho chúa tôi” (II Samuên 1:6-10).

Saulơ đã chết một cái chết thật đáng thương, song sự sỉ nhục chưa hết đâu:

“Ngày sau, dân Phi-li-tin đến lục soát những kẻ chết, thấy Sau-lơ và ba con trai người nằm sải trên núi Ghinh-bô-a. Chúng cắt đầu Sau-lơ, lột lấy binh khí người, và sai báo tin tốt nầy cho khắp xứ dân Phi-li-tin, trong các đền thờ của thần tượng họ và trong cả dân sự. Chúng để binh khí của Sau-lơ tại trong đền thờ Át-tạt-tê, và treo xác người vào tường thành Bết-san” (I Samuên 31:8-10).

Khi David hay được về cái chết của vua và người bạn thân mình là Giônathan, chàng đau lòng lắm. Sự than khóc của chàng dành cho Saulơ, cũng như cho Giônathan, là rất mạnh mẽ và rất chơn thật. Lòng tôn kính của David đối với Saulơ ở II Samuên 1 đã tôn cao Saulơ về mọi sự thành tựu của ông và đã bỏ qua nhiều tội lỗi của ông ta (“tình yêu thương che đậy vô số tội lỗi”). David đã hành quyết gã Amaléc kia vì vai trò của hắn trong việc lấy mạng của nhà vua. Khi ấy, kết thúc một kỷ nguyên.

David trở thành Vua

Giờ đây Saulơ đã qua đời rồi, David sẽ mau chóng – và gần như là tự động – trở thành vua của Israel. Đây chẳng phải là trường hợp đâu. Cần phải tốn thêm 7 năm nữa sau cái chết của Saulơ để David trở thành vua của cả xứ Israel. David đã tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời và trở về lại Hếprôn, ở đó ông được xức dầu làm vua trên xứ Giuđa (II Samuên 2:1-4). Hành động của bậc vua chúa đầu tiên nơi David là ban thưởng cho dân sự ở Giabe Galaát vì đã dạn dĩ dời thi hài của Saulơ xuống không bị treo rồi dành cho ông ta một đám tang đàng hoàng (2:5-7).

Ápne, chú của Saulơ và là Tướng lãnh trong quân đội của Saulơ, đã lập Íchbôsết, con trai của Saulơ, rồi đặt người làm vua trên Israel. Vì thế Israel có hai vị vua: David là vua trên xứ Giuđa, còn Íchbôsết là vua trên các chi phái còn lại của Israel. Các hột giống cho sự phân chia trong tương lai ở Israel đã được gieo ra trong các năm tháng Israel có hai vì vua. Một sự đối đầu vô nghĩa đã diễn ra giữa Israel và Giuđa, thích ứng với cái tôi của Giôáp và Ápne. Một cuộc tranh chấp nổ ra trong một cuộc chiến ngắn ngủi, trong đó một số người đã ngã chết. Ápne đã giết em của Giôáp là Asaên, trước khi cuộc chiến kết thúc.

Khi cuộc xung đột giữa nhà Saulơ và nhà David còn tiếp diễn, Ápne đã lấy một nàng hầu của Saulơ làm vợ, một hành động đã chỉ ra dấu hiệu đòi hỏi ngai vàng (xem I Các Vua 2:13-25). Íchbôsết đã lo ngại rất đúng, nhưng khi anh ta thách thức Ápne, vị Tướng lãnh của anh ta (là người lo tổ chức quân đội rất thành công?), Ápne đã phản ứng mạnh mẽ. Chính sự thách thức nầy đã thúc giục Ápne xoay sự giúp đỡ của mình cho David như nhà vua hợp pháp của Israel, thay vì cho dòng dõi của Saulơ, là Íchbôsết. Ápne đã thương lượng một sự sắp xếp với David, nhưng khi Giôáp hay được sự việc, ông ta đã giết Ápne, báo thù huyết cho Asasên, em người.

Phản ứng của David trước sự báo thù của Giôáp đã đóng một vai trò quan trọng trong việc chữa lành cho xứ sở. David đã công khai than khóc cái chết của Ápne và quở trách mạnh mẽ Giôáp về mọi hành vi của ông ta. Dân Israel đã công nhận rằng chẳng có mưu đồ gì trong việc làm của David và đấy là một việc tốt lành (II Samuên 3:36). Một thời gian ngắn sau đó, hai tôi tớ của Íchbôsết đã giết anh ta rồi mang đầu anh ta đến gặp David tại Hếprôn. Họ đã tính toán sai lầm thật nghiêm trọng về phản ứng của David, vì David đã hành quyết chúng vì việc làm của chúng. Chàng, là người lên làm vua không phải bằng cách lấy mạng sống của Saulơ, sẽ không ban thưởng cho kẻ nào lấy mạng sống của con trai ông ta nữa. Sau cùng, sau bảy năm rưỡi xung đột, David đã trở thành vua của cả xứ:

“Bấy giờ, hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên đến cùng Đa-vít tại Hếp-rôn, mà nói rằng: Chúng tôi đây vốn là cốt nhục của vua. Đã từ xưa, khi Sau-lơ còn cai trị chúng tôi, chính vua đã dắt Y-sơ-ra-ên ra trận và đem họ về. Đức Giê-hô-va có phán cùng vua rằng: Ngươi sẽ chăn dân sự ta, và làm vua của Y-sơ-ra-ên. Vậy, hết thảy các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cùng vua tại Hếp-rôn, vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Hếp-rôn, trước mặt Đức Giê-hô-va, và chúng xức dầu cho Đa-vít làm vua của Y-sơ-ra-ên. Khi Đa-vít khởi trị vì, tuổi đã được ba mươi; người cai trị bốn mươi năm. Tại Hếp-rôn, Đa-vít trị vì trên Giu-đa bảy năm sáu tháng; rồi tại Giê-ru-sa-lem, người trị vì trên cả dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa ba mươi ba năm” (II Samuên 5:1-5).

Vào thời điểm nầy, thành Jerusalem (khi ấy được biết là thành Giêbu) đang được người Giêbusít cai quản. David đã vây lấy thành phố rồi chiếm lấy làm thủ đô của người. Không nghi ngờ chi nữa, địa thế phòng thủ mạnh mẽ của thành ấy, khiến cho nó khó chinh phục, làm cho thành Jerusalem đối với David là một thành sẽ dễ dàng cho sự phòng thủ trong vai trò thủ đô của người:

“Đa-vít ở trong đồn, đặt tên là thành Đa-vít; người xây vách tứ vi từ Mi-lô trở về trong. Đa-vít càng ngày càng cường thạnh, và Giê-hô-va là Đức Chúa Trời vạn quân ở cùng người” (II Samuên 5:9-10).

Một người có thể hình dung lý do tại sao dân Philitin đã phản ứng mạnh mẽ trước những tin tức cho hay rằng David đã lên làm vua trên cả xứ Israel. Khi dân Philitin kết hợp lại, tìm cách gặp David, David và quân đội của chàng đã được dặn dò theo cách thiêng liêng phải tấn công, và Đức Chúa Trời đã ban cho David một chiến thắng có tính cách quyết định đối với kẻ thù của Israel. Khi họ chạy trốn, dân Philitin đã bỏ thần tượng của họ lại giống như gánh nặng vô dụng và gây chết chóc (5:21).

Lúc bấy giờ, David tìm cách đem hòm giao ước của Đức Chúa Trời về thành Jerusalem. Vấn đề, ấy là ông không cẩn thận khi chuyển hòm theo cách Đức Chúa Trời đã ấn định. Thay vì thế, hòm được chuyển y như dân Philitin đã làm, trên một chiếc xe bò mới đóng. Khi một trong hai con bò vấp ngã, rõ ràng là hòm giao ước sẽ bị lật xuống, vì vậy Uxa đã với tay chận lại và bị đánh chết vì hành động bất kính của ông ta. David đã nổi giận vì thấy rằng Đức Chúa Trời đã “nhiễu mưa trên cuộc diễu hành của mình”. Nghi lễ bị ngắt ngang khi ấy, và hòm giao ước được đưa vào nhà của Ôbết Êđôm.

Cần phải có một cuộc tìm kiếm rất nghiêm trọng sau cái chết của Uxa, nhưng khi ấy David đã nhận ra lý do tại sao tai vạ nầy đã xảy ra. Thế rồi họ đã đưa hòm giao ước về tới thành Jerusalem:

“Đa-vít gọi thầy tế lễ Xa-đốc, A-bia-tha, và những người Lê-vi, tức U-ri-ên, A-sa-gia, Giô-ên, Sê-ma-gia, Ê-li-ên, và A-mi-na-đáp, mà bảo rằng: Các ngươi là tộc trưởng của chi phái Lê-vi; vậy, hãy cùng anh em các ngươi dọn mình cho thánh sạch, rồi khiêng hòm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đến nơi mà ta đã sắm sẵn cho hòm. Vì tại lần trước các ngươi không có khiêng hòm, và chúng ta không theo lệ đã định mà cầu vấn Đức Giê-hô-va; nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã hành hạ chúng ta. Vậy, những thầy tế lễ và người Lê-vi dọn mình cho thánh sạch đặng thỉnh hòm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Các con cháu Lê-vi dùng đòn khiêng hòm của Đức Chúa Trời trên vai mình, y như Môi-se đã dạy bảo tùy lời của Đức Giê-hô-va” (I Sử ký 15:11-15).

“Khi những người khiêng hòm của Đức Chúa Trời đã đi sáu bước, thì Đa-vít tế một con bò đực và một con thú mập béo. Đa-vít mặc áo ê-phót vải gai, nhảy múa hết sức tại trước mặt Đức Giê-hô-va. Ấy Đa-vít và cả nhà Y-sơ-ra-ên lấy tiếng vui mừng và tiếng kèn thổi mà thỉnh hòm của Đức Giê-hô-va lên là như vậy” (II Samuên 6:13-15).

Giao ước lập với David (II Samuên 7:1-17)

“Khi vua đã ngự trong cung mình, và Đức Giê-hô-va đã giải cứu người khỏi các kẻ thù nghịch chung quanh mình, khiến cho người được bình an, thì vua nói cùng tiên tri Na-than rằng: Hãy xem, ta ngự trong cái cung bằng bá hương, còn hòm của Đức Chúa Trời lại ở dưới màn trướng. Na-than thưa cùng vua rằng: Hễ trong lòng vua có ý làm gì, thì hãy làm, vì Đức Giê-hô-va ở cùng vua. Nhưng trong lúc ban đêm, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Na-than rằng: Hãy đi nói cùng Đa-vít, tôi tớ ta, rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Người há sẽ xây cho ta một cái đền để ta ngự tại đó sao? Ngươi biết từ ngày ta đưa dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô cho đến ngày nay, ta chẳng có ngự trong đền nào, nhưng hằng đi đó đây dưới trại và nhà tạm. Khắp nơi nào ta ngự qua với dân Y-sơ-ra-ên, ta há có phán lời gì cùng một trưởng nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, là kẻ ta dặn chăn dân sự ta, sao? Ta há có phán cùng chúng nó rằng: Cớ sao các ngươi không dựng cho ta một đền thờ bằng gỗ bá hương? Vậy bây giờ, ngươi hãy nói cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, như vầy: Đức Giê-hô-va vạn quân có phán như vầy: Ta đã gọi ngươi từ giữa đồng cỏ, từ nơi ngươi chăn chiên, đặng lập ngươi làm kẻ dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên của ta. Ta đã ở cùng ngươi trong mọi công việc ngươi làm, tuyệt diệt các kẻ thù nghịch ngươi khỏi trước mặt ngươi, khiến cho ngươi được danh lớn như danh người sang trọng của thế gian. Ta đã sắm sẵn một chỗ cho dân Y-sơ-ra-ên ta, làm cho nó châm rễ tại đó, và nó sẽ ở nơi mình, chẳng còn bị quấy rối nữa; các con loài ác sẽ chẳng hà hiếp nó nữa như ngày xưa, tức là như lúc ta lập quan xét trị dân Y-sơ-ra-ên ta. Ta đã giải cứu ngươi khỏi các thù nghịch ngươi mà ban bình an cho ngươi. Rốt lại, Đức Giê-hô-va phán hứa rằng Ngài sẽ dựng cho ngươi một cái nhà. Khi các ngày ngươi đã mãn, và ngươi ngủ với các tổ phụ ngươi, thì ta sẽ lập dòng giống ngươi kế vị ngươi, là dòng giống do ngươi sanh ra, và ta sẽ khiến cho nước nó bền vững. Nó sẽ xây một đền thờ cho danh ta, và ta sẽ khiến cho ngôi cùng nước nó bền đổ đời đời. Ta sẽ làm cha nó, nó sẽ làm con ta. Nếu nó phạm tội ác, tất ta sẽ sửa phạt nó bằng roi và thương vít loài người; nhưng ta sẽ không rút ân điển ta khỏi nó như ta rút khỏi Sau-lơ, là kẻ ta đã trừ diệt khỏi trước mặt ngươi. Như vậy, nhà ngươi và nước ngươi được bền đổ trước mặt ngươi đời đời; ngôi ngươi sẽ được vững lập đến mãi mãi. Na-than đến thuật lại cho Đa-vít mọi lời nầy và sự mặc thị nầy” (II Samuên 7:1-17).

David đã về an cư tại thành Jerusalem. Ông đã xây dựng cho mình một cung điện, song điều nầy dường như bất xứng cho hòm giao ước khi được giữ trong lều trại. David đã cưu mang ý tưởng xây một đền thờ tại thành Jerusalem, và ông đưa ý tưởng ấy ra với tiên tri Nathan. Nathan đã đáp ứng rất tích cực mà không tham khảo ý kiến của Đức Chúa Trời. Đây dường như là một ý rất hay, nhưng sẽ là Solomon, là người sẽ xây dựng đền thờ, chớ không phải David.

Đáp ứng của Đức Chúa Trời với Nathan – là điều mà ông chuyển đến cho David biết – đặt vấn đề một đền thờ vào triển vọng thích đáng của nó. Đức Chúa Trời nói rõ rằng Ngài không yêu cầu một ngôi “nhà” để ở trong đó. Một khi Ngài đã đem dân Israel ra khỏi xứ Aicập, Đức Chúa Trời đã chọn ngự trong một trại, và Ngài rất hài lòng với các chỗ trọ nầy. Kỳ thực, vấn đề ấy là Đức Chúa Trời không thể bị bao gộp trong các bức tường vuông vức như thế. Đây là sự bàn luận chính xác mà Êtiên đã đưa ra trong sách Công Vụ các Sứ Đồ:

“là người được ơn trước mặt Đức Chúa Trời, và xin ban một chỗ ở cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Kế đó, vua Sa-lô-môn cất cho Chúa một cái nhà. Nhưng Đấng Rất Cao chẳng ở trong nhà bởi tay người ta làm ra, như đấng tiên tri đã nói: Chúa phán: Trời là ngai ta, Đất là bệ chân ta. Nào có nhà nào các ngươi cất cho ta, Có nơi nào cho ta yên nghỉ chăng? Há chẳng phải tay ta đã dựng nên mọi vật nầy chăng?” (Công Vụ các Sứ Đồ 7:46-50).

Đức Chúa Trời chuyển sự bàn bạc sang David. David sẽ xây một ngôi nhà cho Đức Chúa Trời sao? Không. Đức Chúa Trời sẽ không để cho David thực hiện vấn đề nầy, mặc dù Solomon sẽ làm. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ xây một “nhà” (nghĩa là, một triều đại) cho David. Đức Chúa Trời sẽ dấy các dòng dõi của David ngồi trên ngôi của tổ phụ họ. Đây sẽ là một triều đại bất diệt. Giao ước nầy chắc chắn sẽ ứng nghiệm; giao ước ấy sẽ được ứng nghiệm một lần đủ cả khi Chúa Jêsus, “Con vua David” ngự trên ngôi:

“Thiên-sứ bèn nói rằng: Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jêsus. Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài. Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Gia-cốp, nước Ngài vô cùng” (Luca 1:30-33).

Phần kết luận

Sau cùng, Israel có một vị vua, một vị vua lấy làm vui vẻ về luật pháp của Đức Chúa Trời, và tấm lòng người hay tìm kiếm Đức Chúa Trời. Một người sẽ thắc mắc lý do tại sao Đức Chúa Trời không tức khắc chỉ định David làm vua, thay vì phải rắc rối với Saulơ. Tôi nghĩ có vài lý do cho thấy tại sao Đức Chúa Trời đã ban Saulơ cho Israel làm vị vua đầu tiên của họ. Thứ nhứt, dân Israel đã yêu cầu cách sai trái. Họ đã chối bỏ Đức Chúa Trời là Vua của họ và Samuên là tiên tri và quan xét của họ. Khi ban cho họ một vị vua tin kính sẽ trở thành ban thưởng cho Israel vì cớ tội lỗi của họ. Thứ hai, Saulơ đúng là loại vua mà dân Israel đã nghĩ là họ có cần. Ông ta cao ráo, có lẽ ngăm đen, và chắc chắn là đẹp trai. Ông ta là một người có đủ mọi dấu hiệu cho thấy đấy là một lãnh tụ tài ba, hay họ nghĩ như thế. Thứ ba, Đức Chúa Trời đã ban cho họ Saulơ, để dân Israel sẽ tán thưởng David vì ông là ai và ông đã làm gì, khi đối chiếu với Saulơ. Sau cùng, Đức Chúa Trời đã ban Saulơ cho Israel là một vị vua, để ông ta có thể giúp trang bị cho David về vai trò vua chúa của ông. Sự bắt bớ David của Saulơ đã được Đức Chúa Trời đại dụng để tạo nên một con người tin kính nơi David.

Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta rất lạ thường, với nhiều bài học cho những ai muốn tiếp thu từ đó. Cho phép tôi đề nghị một vài lãnh vực ứng dụng.

Thứ nhứt, phân đoạn ấy dạy chúng ta một số bài học có giá trị về sự đầu phục. Đúng là một gương đầu phục mà David có trong mối quan hệ của ông với Saulơ. Thậm chí khi Saulơ đang tìm cách giết chết David, ông cũng không giơ tay lên nghịch của người được xức dầu của Đức Chúa Trời. Khi David có cơ hội để lấy mạng của Saulơ, ông đã không làm vậy. Ông những mong Đức Chúa Trời cất bỏ Saulơ. Đầu phục không luôn luôn là một vấn đề đơn giản đâu, như có người dường như nghĩ thế. Đôi khi, đầu phục trở thành rắc rối, như phân đoạn Kinh thánh chỉ ra. Giônathan đã đối diện với một số lựa chọn khó khăn về sự đầu phục. Ông, là một người con, và là thần dân của nhà vua, cần phải đầu phục cha của mình. Song Giônathan phải vâng theo Đức Chúa Trời thay vì vâng theo con người. Vì vậy, ông không thể và sẽ không giết chết David, ngay khi cha của ông quyết ra lịnh như thế. Một khi David trở thành nhà vua kế đó của Israel, Giônathan cũng phải phục theo David. Giônathan phải có một hệ thống tôn ti rõ ràng về quyền bính, hầu cho ông có thể tự mình đầu phục đối với người khác là những người có nhiều quyền hành hơn ông.

Cũng thực như thế đối với Abigain. Người chồng dại dột của nàng là Nabanh, đã từ chối David không chấp nhận David là vua kế đó của Israel. Ông ta sẽ không dành cho David bất kỳ một thứ gì mà David đòi hỏi. Abigain có bổn phận phải phục theo Nabanh, là chồng của nàng, nhưng nàng cũng có bổn phận phải phục theo David là vị vua tương lai của Israel. Nàng, giống như Giônathan, phải ăn ở sao cho đúng với sự thuận phục và vâng lời bằng cách tìm phương phục theo hai con người khác biệt nầy. Theo ý của tôi, thì Abigain thực sự đầu phục đối với Nabanh, khi nàng làm những điều nàng bị cấm đoán. Chúng ta hãy nhớ, nàng đã liều mạng sống mình để cứu chồng nàng. Nàng không tìm kiếm lợi riêng cho mình, mà cho chồng mình.

Thứ hai, phân đoạn Kinh thánh của chúng ta có đôi điều để dạy dỗ chúng ta về tình trạng thuộc linh trong thế giới tâm linh. Lần thăm viếng của Saulơ đối với bà đồng cốt ở Ênđôrơ quả thực là một việc rất kỳ dị. Sự thăm viếng ấy chẳng tỏ ra quy tắc gì cả. Ngay cả bà đồng cốt ấy cũng rất đỗi kinh ngạc và lấy làm kinh khủng bởi những gì đã diễn ra. Tôi tin trong trường hợp nầy Đức Chúa Trời đã làm một việc bất thường, như một phần kỷ luật thiêng liêng mà Saulơ đáng phải chịu. Saulơ đã tới đến, như sự việc đã xảy ra, vì trái cấm nầy, và Đức Chúa Trời đã ban cho ông một tiên vị về âm phủ – một điều đã làm cho ông sợ bắt chết.

Có sự tương phản ngược lại giữa Saulơ và David khi đến với sự hiện diện của Thánh Linh Đức Chúa Trời nơi mỗi một người. Ở I Samuên, chúng ta thấy sự tỏ ra trông thấy được của Đức Thánh Linh trong đời sống của Saulơ trong một vài cơ hội. Đức Thánh Linh ngự đến lần đầu tiên trên Saulơ rất ngắn ngủi sau khi ông được Samuên xức dầu cho (I Samuên 10:10). Đức Thánh Linh một lần nữa “cảm động Saulơ” khi ông ta hay tin dân Ammôn đe dọa Giabe Galaát (I Samuên 11:6). Thánh Linh của Đức Chúa Trời cũng đến trên Saulơ tại Naiốt trong xứ Rama, ngăn ông ta không được giết chết David (I Samuên 19:23-24).

Khi ấy, cũng có những cơ hội lúc ác thần giáng trên Saulơ, giục giã ông ta chống đối David. Hay lần điều nầy đã xảy ra (18:10-11; 19:9-10), kết quả trong việc Saulơ phóng mũi giáo vào David. Hãy chú ý, ác thần nầy đã vận dụng mọi nổ lực nhắm vào mạng sống của David và đã thất bại. “Ác thần nầy đến từ Đức Giêhôva” là ác thần mà Đức Giêhôva đã cho phép khuấy khuất Saulơ, Ngài cũng ngăn ông ta không được thành công.

Khi tôi xem xét Saulơ ở I Samuên, một tinh thần thắng hơn ông ta trong một số cơ hội. Đôi khi, ông bị Thánh Linh của Đức Chúa Trời thắng hơn; thường thì có một ác thần chiếm hữu ông. Khi Thần của Đức Chúa Trời ngự trên Saulơ, đây là một hành động tối thượng ban cho quyền phép, một hành động không bị giục giã bởi chính mình Saulơ. Khi ác thần giáng trên Saulơ, dường như là vì tội lỗi của ông đã mời gọi sự dính dáng của Satan.

Saulơ, một người phi thuộc linh, lại thường hay bị một linh bao phủ lấy, dù thiện hay ác. Mặt khác, David là một người rất thuộc linh, thế mà chúng ta đọc thấy duy nhứt một lần Thánh Linh Đức Chúa Trời đã giáng trên ông:

“Sa-mu-ên lấy sừng dầu, xức cho người ở giữa các anh người. Từ ngày đó về sau, Thần của Đức Giê-hô-va cảm động Đa-vít. Sa-mu-ên đứng dậy đi về Ra-ma” (I Samuên 16:13, phần nhấn mạnh là của tôi).

Tôi được nhắc nhớ đến một phân đoạn trong các sách Tin Lành:

“Ấy về Đấng đó mà ta đã nói: Có một người đến sau ta, trổi hơn ta, vì người vốn trước ta. Về phần ta, ta vốn chẳng biết Ngài; nhưng ta đã đến làm phép báp-tem bằng nước, để Ngài được tỏ ra cho dân Y-sơ-ra-ên. Giăng lại còn làm chứng nầy nữa: Ta đã thấy Thánh Linh từ trời giáng xuống như chim bò câu, đậu trên mình Ngài. Về phần ta, ta vốn không biết Ngài; nhưng Đấng sai ta làm phép báp-tem bằng nước có phán cùng ta rằng: Đấng mà ngươi sẽ thấy Thánh Linh ngự xuống đậu lên trên, ấy là Đấng làm phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh” (Giăng 1:30-33, phần nhấn mạnh là của tôi).

Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng trên David một lần, và Linh ấy cứ ở lại trên người. Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng trên Saulơ trong một vài cơ hội, nhưng rõ ràng là Ngài không ở lại với Saulơ. Rõ ràng Kinh thánh cho chúng ta biết rằng Thánh Linh Đức Chúa Trời đã lìa bỏ Saulơ. Khi ấy, một ác thần đã đến rồi đi. Saulơ chẳng phải là một người thuộc linh gì hết. David mới là người thuộc linh. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã giáng trên David rồi ở lại nơi người. Có lần David sợ rằng Thần của Đức Chúa Trời sẽ lìa bỏ ông khi ông phạm tội (Thi thiên 51:10-11).

Có những người xem tình trạng thuộc linh với những sự tỏ ra đặc biệt của Đức Thánh Linh. Tôi không nghi ngờ hay thắc mắc Đức Chúa Trời tự do bày tỏ chính mình Ngài ra bằng nhiều phương thức, một số trong đó rất là ngoạn mục. Tôi thắc mắc khi có người nhận rằng một sự tỏ ra ngoạn mục của Đức Thánh Linh minh chứng rằng cá nhân dính dáng là cá nhân thực sự thuộc linh. Chúng ta đừng quên rằng qua những lần thể hiện ở bên ngoài như thế nầy, Saulơ dường như thuộc linh hơn David. Chúng ta hãy nhớ rằng loại “thuộc linh” nầy thường được thấy trong Sách Các Quan Xét, khi Thánh Linh Đức Chúa Trời giáng trên những người như Samsôn. Ngay cả con lừa của Balaam có thể gây ấn tượng cho chúng ta bởi những tiêu chuẩn nầy, song những người nầy không không bằng lòng làm công cụ trong tay của Đức Chúa Trời; họ không phải là hạng người thuộc linh.

David là tấm gương nói tới người được “đầy dẫy Đức Thánh Linh”. Đức Thánh Linh giáng trên ông một lần, và ngự ở trong ông, giống như Đức Thánh Linh giáng trên Chúa chúng ta và cứ ở lại với Ngài luôn. Những sự tỏ ra của Đức Thánh Linh thường thì không ngoạn mục đâu. Trong trường hợp của David, như với Chúa chúng ta, tình trạng thuộc linh của họ rất rõ ràng trong tình yêu của họ dành cho Đức Chúa Trời và nơi ao ước của họ muốn làm theo ý chỉ của Ngài. Rất nhiều lần, chúng ta thấy David tìm kiếm ý chỉ của Đức Chúa Trời. Đôi khi chúng ta thấy điều nầy với Saulơ. Bất cứ lúc nào Đức Chúa Trời không tỏ chính mình Ngài cho Saulơ, Saulơ sẽ nổ lực lắng nghe từ một người đã chết mất (bà đồng cốt ở Ênđôrơ). Chúng ta phải cẩn thận đừng xét đoán tình trạng thuộc linh qua những thể hiện bên ngoài (I Samuên 16:7). Sự hiện diện của Đức Thánh Linh chắc chắn được biết rõ bởi phẩm chất của một người hơn là bởi uy tín của một người. Phaolô đã nói nhiều về sự việc nầy ở I Côrinhtô.

Thứ ba, phân đoạn Kinh thánh dạy dỗ chúng ta nhiều về sự chịu khổ. Chịu khổ là phương tiện của Đức Chúa Trời để sửa soạn cho David lên ngai vàng. (Saulơ chẳng kinh nghiệm sự chịu khổ như thế). Những năm tháng bị xem thường bởi các anh mình, khi cứ mãi lo chăm sóc bầy chiên nhỏ kia, bị Saulơ săn lùng giống như một tội phạm, hết thảy đều là một phần trong quá trình sửa soạn cho David lên ngôi. Chính trong thời gian chịu khổ của ông mà David đã bị cám dỗ muốn giết Saulơ, song ông đã từ chối. Chính trong thời điểm chịu khổ mà David đã viết ra một trong những Thi thiên đẹp nhất của ông. Chịu khổ đã sửa soạn cho David lên làm vua:

“Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!” (Mathiơ 5:10).

“Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài” (Rôma 8:16-17).

“Vậy nên, ta vì cớ những người được chọn mà chịu hết mọi sự, hầu cho họ cũng được sự cứu trong Đức Chúa Jêsus Christ, với sự vinh hiển đời đời. Lời nầy chắc chắn lắm: Ví bằng chúng ta chết với Ngài, thì cũng sẽ sống với Ngài; lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng Ngài đồng trị; nếu chúng ta chối Ngài, thì Ngài cũng sẽ chối chúng ta” (II Timôthê 2:10-12).

“Khi Đấng Christ còn trong xác thịt, thì đã kêu lớn tiếng khóc lóc mà dâng những lời cầu nguyện nài xin cho Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng nhân đức Ngài, nên được nhậm lời. Dầu Ngài là Con, cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu, và sau khi đã được làm nên trọn vẹn rồi, thì trở nên cội rễ của sự cứu rỗi đời đời cho kẻ vâng lời Ngài, lại có Đức Chúa Trời xưng Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm theo ban Mên-chi- xê-đéc” (Hêbơrơ 5:7-10).

Sự chịu khổ của David cũng góp phần để thử lòng trung tín của bạn bè David. Bạn bè chơn thật của David là những người đã chịu khổ với ông trong những thời điểm nghịch cảnh. Giônathan đã tự minh chứng mình là bạn bè chơn thật của David khi Saulơ tìm cách giết ông. Chúng ta thường thấy Giônathan khích lệ David ở giữa những hoạn nạn của ông. Về sau, trong đời sống của David, khi Ápsalôm nhất thời nắm lấy vương quốc, sự chịu khổ sẽ minh chứng ai là bạn bè chơn thật của David.

Sự chịu khổ cũng cho thấy rõ ràng ai là kẻ thù của David. Có người Xíp, họ đã chỉ nơi ở của David cho Vua Saulơ (I Samuên 23:19). Có Đôe, hắn đã báo cho Saulơ biết David đã đến tại Nốp, ở đó ông đã nhận được đồ ăn và thanh gươm. Chính sự phản bội của hắn đã trả giá mạng sống nhiều thầy tế lễ và gia đình của họ (I Samuên 22:9...). Nabanh đã cho thấy màu sắc thật của hắn ta, cũng như qua sự hắn chối bỏ không chấp nhận David là vị vua kế đó của Israel (I Samuên 25).

Chúng ta cũng có thể là một Nabanh, hay một Abigain, một Đôe hoặc một Giônathan. Chúng ta được kêu gọi phải tự xác định mình với Đấng Christ, Ngài bị người ta chối bỏ và bị đóng đinh trên thập tự giá ở đồi Gôgôtha:

“Ta truyền cho các ngươi những điều răn đó, đặng các ngươi yêu mến lẫn nhau vậy. Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi. Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình; nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi. Hãy nhớ lời ta đã nói cùng các ngươi: Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ các ngươi; bằng họ đã giữ lời ta, ắt cũng giữ lời các ngươi. Nhưng vì danh ta họ sẽ lấy mọi điều đó đãi các ngươi, bởi họ không biết Đấng đã sai ta đến” (Giăng 15:17-21).

“cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết” (Philíp 3:10-11).

“Nay tôi lấy làm vui về sự tôi đã chịu khổ sở vì anh em, tôi lại vì thân thể Đấng Christ, là Hội thánh, mà đem xác thịt mình chịu hết các điều còn lại trong sự thương khó của Ngài” (Côlôse 1:24). “Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. Nhưng anh em có phần trong sự thương khó của Đấng Christ bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu, hầu cho đến ngày vinh hiển của Ngài hiện ra, thì anh em cũng được vui mừng nhảy nhót. Ví bằng anh em vì cớ danh Đấng Christ chịu sỉ nhục, thì anh em có phước; vì sự vinh hiển và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đậu trên anh em” (I Phierơ 4:12-14; cũng xem 2:18-25).

Thêm vào việc tự xác định mình với Đấng Christ trong những sự thương khó của Ngài, chúng ta được kêu gọi phải đồng hóa với người nào đang chịu khổ vì Đấng Christ:

“Hãy nhớ lại những lúc ban đầu đó, anh em đã được soi sáng rồi, bèn chịu cơn chiến trận lớn về những sự đau đớn: phần thì chịu sỉ nhục, gặp gian nan, như làm trò cho thiên hạ xem, phần thì chia khổ với những kẻ bị đối đãi đồng một cách. Vì anh em đã thương xót kẻ bị tù, và vui lòng chịu của cải mình bị cướp, bởi biết mình có của cải quí hơn hằng còn luôn” (Hêbơrơ 10:32-34).

Sự chịu khổ vì cớ sự công bình – chịu khổ trong sự vô tội – là một thử nghiệm đức tin và sự nhịn nhục của chúng ta, cũng là một thử nghiệm cho nhiều người khác phải chọn: họ sẽ đồng hóa với người chịu khổ hay là không. Mỗi tuần, chúng ta giữ Tiệc Thánh. Chúng ta kỷ niệm sự thương khó và sự chết của Chúa chúng ta là vì ích cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ rằng không những chúng ta được kêu gọi đồng hóa với những sự thương khó của Ngài trong Hội thánh, nhưng chúng ta được kêu gọi phải đồng hóa với những sự thương khó của Ngài giống như Đấng Christ thể hiện sự sống của Ngài trong chúng ta trong cả tuần lễ. Mặc dù chúng ta thích bỏ qua sự chịu khổ và sự chối bỏ nầy, sự ấy đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chúng ta và trong chương trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời.

Thứ tư, khi tôi đọc về mọi kinh nghiệm của David trong phân đoạn Kinh thánh nầy, tôi thấy có vấn đề nơi những điểm tương tự giữa vương quốc của ông và Nước của Chúa. David dường như là một người chẳng có chỗ đứng hay sự nổi bật nào khi ông được chỉ định làm vua của Israel. Chúa chúng ta đã đến với trần gian như một con trẻ ra đời trong một gia đình nghèo nàn; nơi sinh của Ngài là một cái chuồng chiên. David bị khinh dễ và bị các anh mình chối bỏ; cũng một thể ấy với Chúa chúng ta. Mạng sống của David bị săn lùng bởi một vị vua vốn có lòng kinh khủng và ganh tỵ cực kỳ với bất kỳ vua nào khác dám thách thức vương quốc của ông. Vua Hêrốt, là người đã lường trước Ngài là một mối đe dọa đối với vương quốc của ông ta, đã săn lùng mạng sống của chúa chúng ta. David được giới thiệu là vua của Israel từ lâu trước khi ông thực sự lên làm vua. Chúa chúng ta được giới thiệu là Vua của Israel, và Ngài sẽ tái lâm để đòi lấy ngai vàng. Người nào là hạng người bị xã hội ruồng bỏ, họ đã ở chung quanh David. Phần nhiều trong những người đi theo Đấng Christ là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ (xem Công Vụ các Sứ Đồ 4:13; I Côrinhtô 1:26-31). Khi David đã cai trị trong địa vị vua, ông phải kết hợp những người của chi phái Giuđa với các chi phái khác của Israel, họ đang ở trong sự xung đột. Vương quốc của Chúa chúng ta bao gồm người giàu kẻ nghèo, người Do thái và các dân Ngoại, nô lệ và tự chủ.

Khi chúng ta suy gẫm phân đoạn Kinh thánh nầy và về sự lên ngôi của David làm vua của Israel, chúng ta hãy nhìn qua bên kia và ở phía sau ông, để nhìn thấy Đấng dựng nên vương quốc của ông – là Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta. Quí bạn của tôi ơi, John Maurer, đã lãnh đạo một trong những nhóm tranh luận trong Hội thánh nầy đã bàn bạc về bài học nầy. Ông nhắc cho chúng ta nhớ tới câu nói khác. Thực vậy, John nói: “Chúng ta đừng quên rằng trong khi David là một anh hùng, ông là một anh hùng bất toàn. Anh hùng thực sự của toàn bộ lịch sử là Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mà thôi”. Nguyện sự vinh hiển thuộc về Ngài.

Người nào chối bỏ David hết thảy đều bị hủy diệt. Saulơ đã không thành công trong việc giết chết David; Đức Chúa Trời đã nhìn thấy việc ấy, và Saulơ đã mất mạng mình. Người nào chối bỏ David trở thành kẻ thù của ông. Còn hơn thế nữa, họ trở thành kẻ thù của Đức Chúa Trời, và vì điều nầy họ đã trả bằng một giá đời đời. Chúa Jêsus là Vua của Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa của Đức Chúa Trời. Vòng tay ôm lấy Ngài là Vua các vua và là Cứu Chúa của hạng tội nhân là chọn lấy sự sống đời đời. Chối bỏ Ngài, là chọn lấy hình khổ đời đời. Tôi nguyện rằng Ngài là Vua của bạn nữa đấy!