Lý Tưởng Của Sự Đầu Phục
Sứ
điệp của sách Gióp
Sứ đồ Phaolô viết trong sách Rôma:
“Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ
chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng
ta. Thật thế, muôn vật ước ao nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được
tỏ ra. Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi
cớ Đấng bắt phục. Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự
hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời” (Rôma 8:18-21).
“Vả,
chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là
cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì
Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được
làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã
gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài
đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển. Đã vậy thì chúng ta sẽ
nói làm sao? Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng
ta? Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy
cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao? Ai
sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những
kẻ ấy. Ai sẽ lên án họ ư? Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã chết, và cũng đã sống
lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, cầu nguyện thế cho chúng ta. Ai sẽ
phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Đấng Christ? có phải hoạn nạn, khốn
cùng, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, hay là gươm giáo chăng? Như có
chép rằng: Vì cớ Ngài, chúng tôi bị giết cả ngày; Họ coi chúng tôi như chiên định
đem đến hàng làm thịt. Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương
mình mà thắng hơn bội phần. Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên
sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề
sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức
Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta” (Rôma 8:28-39).
Có nhiều từ dùng trong dạng câu hỏi ở bất kỳ thứ ngôn ngữ
nào. Trong tiếng Anh, hầu hết những từ dùng để hỏi đều bắt đầu với “WH”: “What”, “When”, “Where”,
Who”, và
“How”. Nhiều tri thức người ta kiếm được bằng cách đưa
ra những câu hỏi như thế nầy. Tuy nhiên, câu hỏi gây bối rối cho chúng ta nhiều
nhất là câu hỏi mà tôi chưa nhắc tới: “WHY” [tại
sao]. Đây
là loại câu hỏi mà chúng ta hỏi nhau thường xuyên hơn bất kỳ loại câu hỏi nào
khác. Chúng ta muốn biết lý do nằm ở đàng sau từng biến cố ở dưới mặt trời và vần
điệu cho mọi sự đang xảy ra. Tại sao bạn quên phứt kỷ niệm hàng năm của chúng
ta chứ? Tại sao bạn không có mặt tại trận đấu bóng chày của chúng tôi? Tại sao
bạn lại đến đó? Tại sao bạn làm điều nầy, và tại sao bạn không làm điều kia?
Nhưng tất cả loại câu hỏi WHY đều lu mờ đi khi đem sánh với câu hỏi “WHY” mà chúng ta đôi khi buộc
phải hỏi Đức Chúa Trời.
Thí dụ, hãy tưởng tượng xem bạn có ba đứa con trai đi. Tất
nhiên, bạn yêu thương hết thảy ba đứa ấy. Nhưng đứa nhỏ nhất lại là đứa được
chìu chuộng nhiều nhất. Rất là khó để cho nó ra đi lắm. Nó rời khỏi nhà theo giờ
học, nó phải đến trường. Nó phải đi học – thêm một năm nữa phải đi học. Nó gọi
phone cho bạn, nói cho bạn biết nó sẽ về nhà trong dịp Lễ Cảm Tạ. Bạn nôn nao
chờ đợi cho đến giờ nó về đến nhà. Chỉ một tuần hay trước một tuần trước khi nó
về đến nhà, bạn nhận được phone gọi từ bạn cùng phòng của nó. Con trai bạn đã bị
tai nạn xe gắn máy . . . . Nó đã chết. Bạn sẽ là loại cha mẹ nào nếu bạn không
giơ nắm tay mình lên trước mặt Đức Chúa Trời rồi hỏi “WHY? Tại sao Ngài lại để cho việc nầy xảy ra chứ?”
Tất nhiên, đây không phải là một thí dụ có tính cách tưởng
tượng đâu. Sự việc đã xảy ra trong chính gia đình tôi khi đứa con trai 21 tuổi,
con của chị tôi đã chết trong một tai nạn xe gắn máy. Từng người đọc bài nầy sẽ
có nhiều câu chuyện riêng tư tương tự như câu chuyện nầy, nếu không bi thảm hơn
câu chuyện nầy.
Câu hỏi cổ lổ sỉ mà con người đã dấy lên là đây: tại sao
một Đức Chúa Trời đầy năng quyền và yêu thương lại cho phép những việc như thế
nầy xảy ra chứ? Tất nhiên, một kẻ vô thần sẽ có một câu trả lời sẵn sàng: “Chẳng có Đức Chúa Trời. Nếu có một Đức Chúa Trời, nhất định
Ngài sẽ không để cho những việc như thế nầy xảy ra”. Trong bất cứ việc gì
và trong mọi sự, một kẻ vô thần tìm thấy minh chứng cho việc chối bỏ sự hiện hữu
của Đức Chúa Trời vì: “Chẳng có Đức Chúa Trời: kìa là tư tưởng của
hắn” (Thi thiên 10:4b).
Mặt khác, quả là một sự bí ẩn cho người tin Chúa khi nhìn
thấy mọi đau khổ trên thế gian trong khi người cứ tiếp tục tin theo Đức Chúa Trời.
Thắc mắc cho người tin Chúa là: “Tại sao kẻ ác được thịnh
vượng, còn người công bình thì phải chịu khổ chứ?” Như tác giả Thi thiên đã
nói:
“Vì trong cơn chết chúng nó chẳng bị đau đớn;
Sức lực của chúng nó vẫn đầy đủ. Chúng nó chẳng bị nạn khổ như người khác, cũng
không bị tai họa như người đời” (Thi
thiên 73:4-5).
“Kìa là những kẻ ác, chúng nó bình an vô sự
luôn luôn, nên của cải chúng nó thêm lên” (Thi
thiên 73:12).
Mặt khác, sau khi nhìn thấy mọi rắc rối của mình rồi, người
công bình lại suy nghĩ:
“Tôi đã làm cho lòng tôi tinh sạch, và rửa
tay tôi trong sự vô tội, việc ấy thật lấy làm luống công, vì hằng ngày tôi phải
gian nan, mỗi buổi mai tôi bị sửa phạt” (Thi thiên 73:4, 5, 12-14).
Hay, Thi thiên khác nữa, mà con cháu Côrê đã làm, khi mô
tả mọi rắc rối của họ, họ dấy lên tiếng kêu la đau khổ với Đức Chúa Trời:
“Mọi điều ấy đã xảy đến cho chúng tôi; song
chúng tôi nào quên Chúa. Cũng không bội nghịch giao ước của Chúa. Lòng chúng
tôi không thối lại, bước chúng tôi cũng không trở khỏi lối Chúa. Dầu vậy, Chúa đã
bẻ nát chúng tôi trong chỗ chó rừng, bao phủ chúng tôi bằng bóng sự chết. Nếu
chúng tôi có quên danh Đức Chúa Trời chúng tôi, hoặc giơ tay mình hướng về một
thần lạ, Đức Chúa Trời há sẽ chẳng hỏi tra sao? Vì Ngài biết thấu sự bí mật của
lòng. Thật vì Chúa mà hằng ngày chúng tôi bị giết, chúng tôi bị kể như con
chiên dành cho lò cạo. Hỡi Chúa, hãy tỉnh thức! Nhân sao Chúa ngủ? Hãy chỗi dậy,
chớ từ bỏ chúng tôi luôn luôn. Cớ sao Chúa giấu mặt đi, quên nỗi hoạn nạn và sự
hà hiếp chúng tôi?” (Thi thiên 44: 17-24).
Đối với nhiều người, đặc biệt là những người tin Chúa, khi
họ nếm trải đau khổ và nhiều nan đề, quyển sách trong Kinh thánh mà họ muốn tìm
được sự yên ủi và sự khích lệ lại là sách Gióp. Sở dĩ như thế không phải vì
trong quyển sách nầy họ tìm được giải pháp cho vấn đề đau khổ đâu, mà khi họ đang
nếm trải đau khổ, họ có thể tự mình đồng hóa với nhân vật Gióp.
Sách nầy được xem là sách xưa nhất trong Kinh thánh (các sách trong Cựu Ước không được sắp xếp
theo niên đại, mà là theo chủ đề). Có những biểu hiện trong quyển sách cho
thấy Gióp đã sống trong thời của Ápraham, Ysác, và Giacốp. Các biến cố trong
sách cũng là những biến cố có thật; đấy chẳng phải là một ví dụ hay một huyền
thoại đâu. Chắc chắn, đây là một truyện ký, ở đây tác giả đề cập tới chính bản
thân mình thường ở ngôi thứ ba, một cách thực hành không phải là bất thường
trong văn chương cổ đại (thí dụ, câu chuyện Môise
về đời sống cá nhân ông trong Xuất Êdíptô ký cho đến Phục truyền luật lệ ký). Sau khi nổi khổ của
ông đã hoàn tất rồi, Gióp đã sống 140 năm và đã có đủ thời gian để suy gẫm lại
mọi biến cố của đời mình và viết ra chính câu chuyện của ông (Gióp 42:16).
Sách Gióp mô tả một người đã nếm trải nổi đau khổ ghê gớm
mà hầu hết chúng ta chỉ có thể tưởng tượng ra mà thôi. Ông là một người tin
kính trong từng phương diện. Sự giàu có của ông không ai có thể sánh được. Sau
khi mô tả sự giàu có của mình, quyển sách nói: “người ấy lớn hơn hết trong cả dân Đông phương” (1:3). Ông đã có một gia đình sinh hoạt thật là hạnh phúc. Không những
ông có bảy con trai và ba con gái, nhưng tình cảm giữa vòng chúng vốn là lý tưởng
mà bất kỳ người nào cũng có thể thèm thuồng cho con cái của mình (1:2, 4). Mối quan tâm của Gióp dành cho
gia đình ông được thấy ở chỗ ông dâng các thứ của lễ cho đứa con ở xa nhất có
thể làm phật lòng Đức Chúa Trời.
Ông là người đáng trượng nhất trong xã hội. Hồi tưởng về
vinh dự trong quá khứ của mình, ông nói:
“Khi tôi đi ra đến cửa thành, sửa soạn chỗ
ngồi mình tại phố chợ, các gã trai trẻ thấy tôi bèn ẩn đi, và các người già cả đều
chổi dậy và đứng; Những quan trưởng kiêng nói, và lấy tay bụm miệng; Tiếng người
tước vị nín thinh, và lưỡi họ dính nơi ổ gà…Người ta lắng tai nghe
tôi, chờ đợi, và làm thinh đặng nghe lời tôi bàn. Sau khi tôi nói, chúng không
còn đáp lại; Lời tôi nói gội nhuần trên chúng (như sương). Họ trông đợi tôi như
trông đợi mưa, hả miệng ra dường như vua tại giữa quân đội, khác nào một kẻ an ủi
những người sầu. Tôi mỉm cười với chúng, khi chúng bị ngã lòng; Họ chẳng hề làm
rối nét mặt bình tịnh tôi được”(29:7-10,
21-24).
Trên hết mọi sự, Gióp là một con người tin kính. Ông kính
sợ Đức Chúa Trời nhiều hơn bất cứ gì hay bất cứ ai. Quyển sách bắt đầu với sự
công nhận về bổn tánh của ông: “người ấy vốn trọn vẹn và ngay thẳng; kính sợ Đức Chúa Trời,
và lánh khỏi điều ác” (1:1). Khi phán với
Satan, chính mình Đức Chúa Trời cung ứng cho hắn chính sự xét nét đó, không những
một lần, mà là hai lần:
“Đức Giê-hô-va lại hỏi Sa-tan rằng: Ngươi có nhìn thấy
Gióp, tôi tớ của ta chăng; nơi thế gian chẳng có người nào giống như nó, vốn trọn
vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời ,
và lánh khỏi điều ác?” (1:8; 2:3).
Trong bốn đặc điểm nầy, có hai đặc điểm gắn liền với các
mối quan hệ của con người nơi ông. Trong mối quan hệ của ông với tha nhân, Gióp
vốn trọn vẹn và ngay thẳng. Không một người nào dám chỉ ngón tay vào mặt ông rồi
tố cáo ông về bất kỳ sai lầm nào mà ông đã phạm. Sau đó, bản thân ông chối bỏ
không phạm vào bất kỳ sai lầm nào hoặc làm mất lòng ai về sự công bình và công
lý (chương 31). Hai đặc điểm kia đề cập
tới mối quan hệ của ông với Đức Chúa Trời. Ông kính sợ Đức Chúa Trời, và vì cớ ấy,
ông lánh khỏi điều ác bất cứ là giá nào. Trong trường hợp mối quan hệ của ông với
con người hay trong mối quan hệ của ông với Đức Chúa Trời, ông đã có bản chất
không lỗi và sự ngay thẳng không tì vít chi hết. Gần như bổn tánh ấy giống hệt
Chúa Jêsus là Đấng “càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời
và người ta” (Luke 2:52).
Bạn mong muốn loại người nầy khác với ơn phước đến từ Đức
Chúa Trời như thế nào? Sự thực cho thấy rằng Đức Chúa Trời chúc phước cho người
công bình và hình phạt dành cho kẻ ác. Kinh thánh đầy dẫy với những lời hứa và điển
hình về những việc giống như vậy. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không bị ràng buộc
vào những mong đợi của chúng ta; Đức Chúa Trời không mắc nợ chúng ta một điều
gì cả. Chúng ta nợ Ngài mọi sự, thậm chí chính hơi thở mà chúng ta đang có mỗi
ngày đây.
Đối với Gióp, mọi sự đà thay đổi chỉ qua một đêm – sát
nghĩa. Hãy nhìn xem mọi sự nhanh chóng đang xảy ra:
“Xảy một ngày kia, khi các con trai và con gái người đang ăn
và uống rượu trong nhà anh cả chúng nó, một sứ giả đến báo tin cho Gióp rằng:
Bò đang cày, lừa đang ăn gần bên cạnh, thì dân Sê-ba xông vào chúng nó, đoạt cướp
đi, và lấy lưỡi gươm giết các tôi tớ; chỉ một mình tôi thoát khỏi đặng báo tin
cho ông. Người nầy còn đang nói, thì một người khác đến, báo rằng: Lửa của Đức
Chúa Trời từ trên trời giáng xuống thiêu đốt các con chiên và tôi tớ, làm cho
tiêu hủy chúng nó đi; chỉ một mình tôi thoát khỏi đặng báo tin cho ông. Người nầy
còn đang nói, thì một kẻ khác chạy đến, báo rằng: Dân Canh-đê phân làm ba đạo,
xông vào lạc đà, cướp đoạt đi, và lấy lưỡi gươm giết các tôi tớ; chỉ một mình
tôi thoát khỏi đặng báo tin cho ông” (Gióp
1:13-17).
Rồi cú đấm mạnh nhất trong mọi sự:
“Người nầy còn đang nói, thì một kẻ khác chạy đến, báo rằng:
Các con trai và con gái ông đang ăn uống tại nơi nhà anh cả của họ, kìa một ngọn
gió lớn từ phía bên kia sa mạc thổi đến, làm cho bốn góc nhà rung rinh, nhà sập
xuống đè chết các người trẻ tuổi; chỉ một mình tôi thoát khỏi đặng báo tin cho
ông”
(1:18-19).
Và giống như thể mọi sự nầy là chưa đủ:
“Sa-tan bèn lui ra khỏi trước mặt Đức
Giê-hô-va, hành hại Gióp một bịnh ung độc, từ bàn chân cho đến chót đầu. Gióp lấy
một miếng sành đặng gãi mình, và ngồi trong đống tro” (2:7-8).
Mặc dù mất mát hết mọi sự giàu có, tất cả con trai con
gái là những cú đấm mạnh nhất bất cứ người nào có thể gánh chịu, phần luận lẽ của
Satan là: “Lấy
da đền da, phàm vật chi một người có, tất sẽ trao thế cho mạng sống mình” (2:4).
Và Gióp chỉ còn lại một mình trong mọi sự nầy! Không một
con trai con gái nào của ông còn lại. Kẻ sống sót duy nhất từ gia đình ông là vợ
của ông, và dường như bà chẳng có chút cảm thông nào dành cho ông hay hiểu rõ
thái độ cam kết của ông đối với Chúa. Bà nói năng giống như một “người đàn bà ngu muội” (2:10). Bà cứ ngạc nhiên khi thấy Gióp vẫn mãi giữ thái độ ngay thẳng
của mình, rồi lời khuyên của bà là: “Hãy phỉ báng Đức Chúa Trời, và chết đi!” (2:9). Đây chính xác là điều mà Satan đòi hỏi: “Nhưng
bây giờ xin Chúa hãy giơ tay ra, đụng đến hại xương thịt người, ắt là người sẽ
phỉ báng Chúa trước mặt” (1:11; 2:5).
Thắc mắc làm nền cho sách Gióp là: “Sao người công bình phải
chịu khổ?” Phần chính của sách nầy là phần mô tả mọi nổ lực của con người
hòng tìm câu trả lời cho thắc mắc khó hiểu nầy.
Câu trả lời dễ dàng nhất từ nhận định của con người, ấy
là Đức Chúa Trời đem rối rắm vào trong đời sống của con người giống như một hậu
quả của tội lỗi người. Rắc rối chỉ ra tội lỗi nào đó nơi con người. Nếu chúng
ta tin Đức Chúa Trời là sự yêu thương và Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, thế
thì nguồn đau khổ không thể đặt nơi Đức Chúa Trời; nguồn ấy phải đặt nơi con người.
Con người đem đau khổ khoác lên chính mình vì cớ tội lỗi. Đức Chúa Trời là
thánh và nhơn đó không thể dung chịu tội lỗi nơi đời sống của con người, và
Ngài không thể để cho một tội lỗi nào xảy ra mà không bị phạt. Có mối quan hệ nhân
quả giữa đau khổ và tội lỗi. Từng hệ quả đều có một nguyên nhân ở đàng sau nó; từng
rối rắm đều có một tội lỗi ở đàng sau nó. Theo luật nhân quả nầy, chẳng có đau
khổ nào mà không có tội lỗi.
Điều nầy được thấy rõ qua lời lẽ của ba người bạn của
Gióp, Êlipha, Binhđát và Xôpha bắt đầu từ chương 4 suốt cho đến chương 31. Có
ba vòng tranh luận giữa mấy người bạn nầy và Gióp. Êlipha nói và Gióp đáp lại; Binhđát
nói và Gióp đáp lại; và Xôpha nói thì Gióp đáp lại. Chính việc ấy xảy ra ở vòng
thứ hai. Đến vòng thứ ba, chỉ có Êlipha và Binhđát nói.
Phần tranh luận cơ bản của họ, ấy là chẳng có đau khổ nào
mà không có tội lỗi nơi đời sống của một người. Đức Chúa Trời hình phạt tội lỗi,
và con người dường như bị hình phạt bởi Đức Chúa Trời, và thế là người đã phạm
tội. Gióp đã phạm vào một tội lỗi ghê khiếp nào đó; sau cùng giờ đây Đức Chúa
Trời đã bắt lấy tội lỗi của ông, và ông hiện gánh lấy đầy đủ phần thưởng của tội
lỗi ông.
Êlipha nói:
“Ông hãy suy xét lại, nào bao giờ có kẻ vô
tội bị hư mất? Đâu có người ngay thẳng lại bị trừ diệt? Theo điều tôi đã thấy,
ai cày sự gian ác, và gieo điều khuấy rối, thì lại gặt lấy nó” (4:7-8).
hay,
“Trọn đời người hung ác bị đau đớn cực
lòng, số ít năm để dành cho kẻ hà hiếp” (15:20).
Trong lời lẽ sau cùng của ông, ông nói toạt ra chẳng có
chút giả vờ nào trong đó:
“Có phải vì Ngài sợ ông nên Ngài trách phạt,
và xét đoán ông chăng? Sự dữ của ông há chẳng phải lớn sao? Các tội ác ông há
không phải vô cùng ư?” (22:4-5).
Tiếp đến, ông mô tả thẳng thừng, viện ra mọi tội lỗi của
Gióp (22:6…).
Binhđát cũng có phần luận lẽ đó:
“Đức Chúa Trời há thiên đoán ư? Đấng toàn năng
há trái phép công bình sao? Nếu con cái ông có phạm tội cùng Ngài, thì Ngài đã
phó chúng nó vào quyền tội ác của chúng nó”. ... Đường lối kẻ quên Đức
Chúa Trời là như vậy: Sự trông cậy kẻ không kính sợ Đức Chúa Trời sẽ hư mất” (8:3, 4, 13).
Và,
“Quả thật đó là nơi ở của kẻ bất công, và ấy
là chốn của người không biết Đức Chúa Trời” (18:21).
Xôpha đưa ra một cú đấm trực tiếp: “Vậy,
khá biết rằng Đức Chúa Trời phạt ông lại không xứng với tội gian ác của ông” (11:6). Nghĩa là, Đức Chúa Trời đã hình phạt tương xứng với việc bạn
làm! Lời khuyên của ông là:
“Bằng có tội ác trong tay ông, mà ông bỏ xa
khỏi mình, chẳng để sự bất công ở trong trại mình, bấy giờ, ông hẳn sẽ ngước mắt
lên không tì vít gì, thật sẽ được vững vàng, chẳng sợ chi” (11:14-15).
Thực sự chúng ta không thể đổ thừa cho bạn bè của Gióp vì
đã giả định rằng ông đã phạm tội; nói khác đi, tại sao Đức Chúa Trời lại đem
hình phạt ghê khiếp nầy giáng trên ông? Như chúng ta có thể nhìn thấy từ những
phần luận lẽ của họ, họ đang chạy theo một hệ thống tín điều xa xưa lắm rồi. Êlipha
kể lại những điềm chiêm bao cùng các sự hiện thấy để ủng hộ cho quan điểm của
ông (4:12-16). Binhđát trình bày những
kinh nghiệm xưa cũ của các thế hệ và tổ phụ đời trước để minh chứng cho luận điểm
của ông (8:8-10). Phần bàn luận của
Xôpha là: “Hãy
biết rõ rằng, từ đời xưa, từ khi loài người được đặt nơi thế gian” (20:4).
Lối suy nghĩ như vậy không những có trong thời của Gióp. Chúng
ta nhìn thấy sự giả định ấy hàng ngàn năm về sau trong thời của Chúa Jêsus. Ở Giăng 9, các môn đồ đã nhìn thấy
một người mù từ thuở sanh ra và hỏi: "Thưa thầy ai đã phạm tội,
người hay là cha mẹ người, mà người sanh ra thì mù như vậy?” (Giăng 9:2). Thắc mắc không nhắm vào bất cứ tội lỗi
nào ở đàng sau việc người bị mù từ thuở sanh ra. Giống như là đương nhiên vậy.
Thắc mắc của họ là: “AI đã phạm tội?” Rõ ràng là không phải tội
lỗi của người, vì người bị mù từ thuở sanh ra, và một người không thể phạm tội
trước khi người chào đời. Thần học của người Do thái cũng không tin vào sự đầu
thai, là thuyết cho rằng một người phạm tội trong kiếp trước. Vì vậy, họ đã giả
định rằng đó phải là tội lỗi của cha mẹ người. Nhưng có một việc là chắc chắn: người
không thể nhận lãnh án phạt của mình nếu chẳng có tội lỗi dính dáng vào, dù là
tội lỗi của chính người hay của cha mẹ người.
Đối với mấy người bạn của Gióp, có hai lý do cho việc giả
định tình trạng tội lỗi của Gióp và mọi rối rắm của ông là kết quả của tội lỗi
nào đó trong đời sống của ông. Một tội lỗi trong nguyên tắc nhân quả. Trong lý
thuyết của Ấn giáo, nguyên tắc nhân quả kín đáo đến nỗi con người phải gánh chịu
mọi hậu quả, tốt hay xấu, cho sự việc mà người làm, cho nhiều kiếp hầu đến. Vì
vậy, nổi khổ trong đời sống của một người là một hậu quả được gắn với nguyên
nhân: một tội lỗi nào đó, tội trong đời nầy hay trong kiếp trước. Mặc dù thần học
của người Do thái không tin vào sự đầu thai, nó vẫn gắn quan hệ nhân quả nầy với
tội lỗi cùng một hậu quả của nó. Lý do là đây: Đức Chúa Trời hình phạt tội lỗi.
Con người dường như bị hình phạt, và vì người đã phạm tội. Theo lý thuyết của Ấn
giáo, và cũng trong hầu hết các tôn giáo khác, sự tha tội là không sẵn có, và
vì vậy đây là sự bàn bạc hợp lý.
Lý do thứ hai cho việc giả định tội lỗi của một người là
nổ lực của con người bào chữa cho trường hợp của Đức Chúa Trời và không chấp nhận
Ngài có bất cứ hành động sai trái nào. Điều nầy đặc biệt là thật nơi ba người bạn
của Gióp. Phần tranh luận là: “Nếu Đức Chúa Trời đem lại
mọi rối rắm nầy giáng trên Gióp trong khi ông chẳng phạm một tội lỗi nào hết, như
thế sẽ không phải là công bằng, và một Đức Chúa Trời công bình và thánh khiết
không thể làm bất cứ điều chi là bất công”.
Binhđát chạy theo lối suy tưởng nầy khi ông dấy lên thắc
mắc của mình:
“Đức Chúa Trời há thiên đoán ư? Đấng toàn năng
há trái phép công bình sao? Nếu con cái ông có phạm tội cùng Ngài, thì Ngài đã
phó chúng nó vào quyền tội ác của chúng nó. Nếu ông cẩn thận tìm kiếm Đức Chúa
Trời, cầu khẩn cùng Đấng toàn năng, nếu ông thanh sạch và ngay thẳng, quả thật
bây giờ Ngài sẽ tỉnh thức vì ông, và làm cho nhà công bình ông được hưng thạnh” (8:3-6).
Cách luận lẽ rất rõ ràng, tuy nhiên chưa chính xác. Đức
Chúa Trời hình phạt tội lỗi và ban thưởng cho người công bình. Nếu con người bị
hình phạt, con người hẳn đã phạm tội. Nếu bạn muốn được ban thưởng, bạn phải ăn
năn, và khi ấy bạn sẽ được tái khẳng định. Đức Chúa Trời đang theo một hệ thống
công bình rất đặc biệt: “Kìa,
Đức Chúa Trời chẳng từ bỏ người trọn vẹn, cũng không giúp đỡ kẻ hung ác” (8:20).
Êlihu, ông đang ngồi trên chuyến phi cơ bay cao hơn ba người
bạn kia của Gióp, có cùng một sự bàn luận:
“Vì vậy, hỡi người thông sáng, hãy nghe
tôi: Đức Chúa Trời chẳng hề hành ác, Đấng Toàn năng không bao giờ làm hung nghiệt.
Ngài báo ứng loài người tùy công việc mình làm, khiến mỗi người tìm được lại
chiếu theo tánh hạnh mình. Quả thật Đức Chúa Trời không làm ác, Đấng Toàn Năng
chẳng trái phép công bình” (34:10-12).
Sau khi nhìn thấy tình trạng của Gióp, bạn bè của ông chỉ
nhìn thấy có hai cách lý luận: một là Gióp đã phạm tội và Đức Chúa Trời đang
hình phạt ông theo cách công bình, hoặc, Gióp không phạm tội, và Đức Chúa Trời đã
phạt vạ ông thật bất công. Rõ ràng, đối với bất kỳ một người tôn giáo nào, chỉ
có một sự lựa chọn còn lại mà thôi: Gióp đã phạm tội, và Đức Chúa Trời đang
hình phạt ông một cách công bình, vì sự lựa chọn kia sẽ tương đương với phạm thượng.
Trong lối suy nghĩ tôn giáo của họ, Đức Chúa Trời được nhốt trong một cái hộp,
Ngài không thể thoát ra khỏi đó. Ngài phải chạy theo hệ thống công bình mà
chúng ta nghĩ là đúng.
Kinh thánh dường như ủng hộ lối luận lẽ nầy, và quả thật,
Đức Chúa Trời đang giáng phạt như một kết quả của tội lỗi đặc biệt nào đó trong
đời sống của một người.
Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời rõ ràng đã cảnh báo dân Israel về mọi hậu
quả của tội lỗi họ. “Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của
Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, nầy là mọi phước lành” (Phục truyền luật lệ ký 28:1-14). “Nhưng
nếu ngươi không nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, không cẩn
thận làm theo các điều răn và luật pháp của Ngài mà ta truyền cho ngươi ngày
nay, thì nầy là mọi sự rủa sả” (Phục
truyền luật lệ ký 28:15-68). Lêvi ký 26 cũng nói tới
các phần thưởng của sự vâng phục và hình phạt dành cho sự bất tuân. Trong cả
hai nơi: Phục truyền luật lệ ký 28 và Lêvi ký
26, danh sách những hình phạt dành cho sự bất tuân dài hơn danh sách
các phần thưởng của sự vâng lời!
Cũng có nhiều điển hình cá nhân trong Kinh thánh, ở đó một
người nhận lãnh hình phạt vì một tội lỗi đặc biệt trong đời sống của người. Thí
dụ, Đức Chúa Trời hình phạt David vì tội lỗi tà dâm của ông với Bátsêba, và đứa
con sanh ra trong mối quan hệ nầy đã phải chết (II Samuên 12:15-20). Trong trường hợp khác,
David đã cho điều tra dân số ngược lại với ý chỉ của Đức Chúa Trời, và 70.000 người
đã ngã chết bởi trận dịch mà Đức Giêhôva đã sai đến như một sự sửa phạt dành
cho tội lỗi của David (II
Samuên 24:1-17). Ghêhaxi, tôi tớ của Êlisê, vì cớ tánh tham của
người, đã nhận lấy quà cáp của Naaman người Syri rồi bị đánh bởi bệnh phung (II Các Vua 5:19-27).
Vua Ôxia là một trong những vị vua nhơn đức của xứ Giuđa. Ông đã trị vì tại
thành Jerusalem
trong 52 năm và “ông đã làm điều thiện trước mặt Đức Giêhôva”. Nhưng sau khi ông trở
nên quyền lực rồi, ông đã kiêu ngạo, rồi trong sự kiêu ngạo đó, ông bước vào đền
thờ của Đức Giêhôva để dâng hương trên bàn thờ. Ông đã làm những gì chỉ có thầy
tế lễ được phiên dâng hương mới có thể làm. Kết quả là, ông mắc bịnh phung cho
tới ngày ông qua đời (II
Sử ký 26:1-21).
Trong Tân Ước, sứ đồ Phaolô nói: “Vả, cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời
tỏ ra nghịch cùng mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người
dùng sự không công bình mà bắt hiếp lẽ thật” (Rôma
1:18). Và “Những
người đàn ông cũng vậy, bỏ cách dùng tự nhiên của người đàn bà mà un đốt tình dục
người nầy với kẻ kia, đàn ông cùng đàn ông phạm sự xấu hổ, và chính mình họ phải
chịu báo ứng xứng với điều lầm lỗi của mình” (Rôma
1:27). Anania và Saphira đã nói dối với Đức Chúa Trời, và cả hai
người họ đều nhận được án phạt sự chết ngay tức khắc (Công Vụ các Sứ Đồ 5:1-11).
Vì vậy, thật là rõ ràng từ Kinh thánh, Đức Chúa Trời đôi
khi đem tai họa đến cho một người hay cho đời sống của xứ sở như một kết quả của
một tội lỗi đặc biệt nào đó. Tuy nhiên, rõ ràng điều nầy không áp dụng trong từng
tình huống ở đó một người đang chịu khổ. Vì Đức Chúa Trời hình phạt tội lỗi và đôi
khi đem tai họa đến như một kết quả của một tội lỗi đặc biệt nào đó trong đời sống
của một người, điều nầy không có ý nói rằng bất cứ khi nào một người rơi vào chỗ
khó khăn hay đang chịu khổ, điều đó phải có nghĩa là kết quả của tội lỗi người.
Bất cứ lúc nào chúng ta nhìn thấy đau khổ, chúng ta bị cám dỗ mà áp dụng sự luận
lẽ không hay của mấy người bạn của Gióp: Đức Chúa Trời đem lại sự đau khổ như một
án phạt dành cho tội lỗi. Con người đang chịu khổ, vì người đã phạm tội và đang
bị hình phạt vì cớ tội lỗi của người.
Lý thuyết nầy hiển nhiên không giải đáp được hoàn cảnh của
Gióp. Thắc mắc không phải là “tại sao kẻ ác chịu khổ?” Chúng ta có một câu trả
lời dường như hợp lý và chính đáng cho câu hỏi ấy. Thắc mắc của chúng ta là: “Tại sao người công bình phải chịu khổ?” Trong trường hợp của
Gióp, vấn đề đơn sơ đến nỗi ông không chịu khổ như một kết quả của một tội lỗi đặc
biệt trong đời sống của ông. Bản tánh của ông là không tì vít – như bản tánh của
một con người có thể ở mức độ đó. Như chúng ta đã lưu ý trên đây, quyển sách mở
ra với một câu nói cung ứng lời khen ngợi xứng đáng nhắm vào bản tánh của ông: “người ấy vốn trọn vẹn và
ngay thẳng; kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác” (1:1), và chính mình Đức Chúa Trời sử dụng chính xác chính lời lẽ nầy
dành cho ông ở trước mặt Satan.
Vì vậy, vấn đề đau khổ của chúng ta không được giải quyết
bằng phần tranh luận phổ thông do mấy người bạn của Gióp là Êlipha, Binhđát và Xôpha
tiêu biểu cho. Phần luận lẽ ấy quá đơn giản và không áp dụng được cho tình huống
của Gióp và nhiều tình huống khác trong kinh nghiệm riêng của chúng ta. Khi một
người, là người đã sống trọn đời sống mình lo làm những điều đẹp lòng Đức Chúa
Trời và là một ống dẫn phước hạnh cho mọi người chung quanh mình, bị phủ lút bởi
đau khổ không lường được, chúng ta không làm chi khác hơn là tự hỏi về hệ thống
công bình của Đức Chúa Trời và tra hỏi Ngài “Why?” [Tại
sao?] Bạn
bè của Gióp không có câu trả lời. Họ đã tin chắc rằng mọi rối rắm chỉ ra không
thể tránh được sự hiện diện của tội lỗi. Trong trường hợp đó, thắc mắc của Gióp
(và của chúng ta nữa) là: “Ngài
tiêu diệt người trọn vẹn cũng như kẻ gian ác” (9:22).
Tại sao chứ?
Ngoài ba người bạn nầy, Gióp còn có thêm một người bạn nữa
tên là Êlihu. Ông cũng bày tỏ ra ý kiến của mình, là điều đáng chú ý. Ông còn đi
xa hơn phần luận lẽ của ba người bạn kia. Ông đã giữ im lặng lâu nay, chẳng nói
năng gì cả. Ông đã giữ im lặng vì ba người bạn kia lớn tuổi hơn ông và cũng vì
ông hy vọng họ sẽ trình bày một giải pháp nào đó cho nan đề của Gióp. Sau cùng,
ông nói:
“Tôi đang trẻ, còn các anh là ông già; Vì vậy,
tôi nhát, không dám tỏ cho các anh biết ý tưởng tôi. Tôi nghĩ rằng: Ai đã sống
lâu ngày sẽ nói, số năm cao sẽ dạy sự khôn ngoan” (32:6).
Ông không thể đợi lâu hơn nữa; ông đã nổi giận với ba người
bạn kia vì họ chẳng tìm được cách thế nào để bài bác Gióp, tuy nhiên họ còn xét
đoán ông ấy nữa:
“Kìa, tôi đã chờ đợi nghe các lời của các
anh, Lắng tai nghe những lời luận biện các anh, cho đến khi các anh đã tra xét đều
cho xong. Thật, tôi có chăm chỉ nghe các anh. Thấy chẳng một ai trong các anh
thắng hơn Gióp, hoặc đáp lời của người được” (32:11-12).
Êlihu đôi khi bị đổ thừa vì tự cao và quá tự tin bởi những
người không hiểu rõ cách nói dài dòng của ông. Tuy nhiên, ông đi quá những gì
ba người bạn kia đã nói và, thay vì trình bày những luận điệu đời xưa, ông nổ lực
đề nghị một giải pháp cho nan đề đau khổ. Ông không phải là tay thuyết giảng tự
cao, nhưng trình bày lời khuyên tốt có thể nghe được.
Thứ nhứt, Êlihu lưu ý, trong
một tư thế tương tự với ba người bạn kia, rằng đau khổ có thể chỉ ra tội
lỗi kín giấu hay chưa xưng ra nơi đời sống của một người. Ông luận rằng qua đau
khổ, Đức Chúa Trời dịu dàng dẫn dắt con người rồi đem người ra khỏi chỗ sai lầm
và đặt người vào con đường ngay thẳng. Êlihu nói, khi có tội lỗi trong đời sống
của một người, Đức Chúa Trời xử lý với người ấy bằng một trong hai cách. Một
trong hai cách nầy là:
“Ngài phán trong chiêm bao, trong dị tượng
ban đêm, lúc người ta ngủ mê, nằm ngủ trên giường mình; Bấy giờ Ngài mở lỗ tai
loài người, niêm phong lời giáo huấn mà Ngài dạy cho họ, hầu cho loài nguời khỏi
điều họ toan làm, và giấu họ tánh kiêu ngạo, cứu linh hồn họ khỏi cái huyệt, và
mạng sống khỏi bị gươm giết” (33:16-18).
Còn cách kia, Đức Chúa Trời phán cùng một người qua sự đau
khổ:
“Loài người nằm trên giường mình bị đau đớn
sửa phạt, và xương cốt người hàng tranh chạm nhau mãi mãi, miệng người bèn lấy
làm gớm ghiếc vật thực, và linh hồn người ghét những đồ ăn mĩ vị. Thịt người bị
tiêu hao không còn thấy nữa, và xương người, mà trước chẳng thấy được, bèn bị lộ
ra. Linh hồn người đến gần cái hầm, và sự sống người xích lại kẻ giết” (33:19-22).
Kết quả là, người nào bị giáng cho đau khổ đến với người
khác rồi đưa ra phần làm chứng của mình rằng:
“Tôi đã phạm tội, làm hư hoại sự ngay thẳng,
song chẳng có ích gì cho tôi. Đức Chúa Trời có giải cứu linh hồn tôi khỏi sa xuống
hầm, và sự sống tôi sẽ thấy ánh sáng" (33:27-28).
Đức Chúa Trời đang làm mọi sự nầy cho một người, đôi khi
phán cùng người trong đau khổ: “Đặng khiến linh hồn người trở lại khỏi cái
hầm, hầu cho người được ánh sáng kẻ sống chiếu vào cho” (33:30).
Ý kiến của Êlihu, ấy là từ hai cách nầy Đức Chúa Trời đã phán
với Gióp qua đau khổ. Vì vậy, lời khuyên của ông với Gióp, ấy là ông nên lắng
nghe, ăn năn, và được phục hồi. Thay vì ăn năn tội, Gióp cứ mãi nói:
“Tôi trong sạch, không có vi phạm; Tôi vô tội,
và trong lòng tôi chẳng có gian ác gì. Dầu vậy, Đức Chúa Trời tìm dịp đối địch
tôi, cầm tôi như kẻ thù nghịch Ngài” (33:9-10).
Và,
“Tôi vốn là công bình, nhưng Đức Chúa Trời đã
cất sự lý đoán tôi. Tuy tôi ngay thẳng, người ta cho tôi là kẻ nói dối; Dẫu tôi
không phạm tội, thương tích tôi không chữa lành được” (34:5-6).
Phần luận lẽ của Êlihu, ấy là chúng ta không thể dung chịu
Gióp cứ đổ thừa Đức Chúa Trời vì sự bất công. Vì: “Quả thật Đức Chúa Trời không làm ác, Đấng
Toàn năng chẳng trái phép công bình” (34:12).
Thay vì thế: “Ngài báo ứng loài người tùy công việc mình
làm, khiến mỗi người tìm được lại chiếu theo tánh hạnh mình” (34:11).
Dường như là Êlihu có cùng phần luận lẽ giống như ba người
bạn kia. Giống như họ, ông cũng tìm cách xưng công bình cho Đức Chúa Trời và tố
cáo Gióp, là kẻ “kết
bạn với kẻ làm hung nghiệt, và đồng đi với người gian ác?” (34:8). Tuy nhiên,
ông không giả định một tội lỗi đặc biệt nào trong đời sống của Gióp như ba người
kia đã làm. Ông chỉ trình bày nó như một lý do khả thi mà thôi.
Cũng không giống như ba người kia, thay vì giả định một tội
nào đó trong đời sống của Gióp trong quá khứ đã đem lại nổi khổ trong hiện tại,
ông hướng sự chú ý của Gióp về phía thái độ hiện tại của ông vì cớ nổi khổ ghê
gớm của ông. Ông không dám chắc, không như ba người kia, không biết Gióp có phạm
bất kỳ tội lỗi nào đó trong quá khứ hay không!?! Nhưng ông có thể nhìn thấy rõ
những gì Gióp đang thể hiện lúc bây giờ. Ông đang: “đáp lời như kẻ ác; Người
có thêm sự phản nghịch vào tội lỗi mình, vỗ tay mình tại giữa chúng tôi, và
càng thêm lời nói nghịch Đức Chúa Trời” (34:36-37).
Lời khuyên của ông, ấy là thà là Gióp nên tin cậy Đức Chúa Trời và kiên nhẫn chịu
đựng đau khổ, thay vì đổ thừa Đức Chúa Trời vì sự bất công. “Khá
giữ lấy mình, chớ xây về tội ác; Vì ấy là điều ông ưa chọn hơn sự hoạn nạn” (36:21).
Êlihu cung ứng một cái nhìn có ý nghĩa vào loại đáp ứng
mà chúng ta nên có khi chúng ta nếm trải đau khổ. Cái điều tốt nhứt cho một người
đang nếm trải đau khổ là biết tự xét mình rồi đánh giá chính đời sống của mình
và nhìn xem coi có tội lỗi nào đặc biệt nào trong cuộc sống có thể là nguyên
nhân cho nổi đau khổ của mình. Nếu người tìm đặng nó, người nên xưng tội và ăn
năn rồi được phục hòa lại với Đức Chúa Trời. Mặc dù nổi đau khổ có thể chưa được
dời đi ngay tức khắc, người sẽ tìm được sự bình an trong linh hồn mình và nhìn
thấy tình yêu của Đức Chúa Trời cho dù đang đau khổ (Thi thiên 51:1-12).
Tuy nhiên, điều nầy có thể được thực hiện bởi chính mình
người, chớ không phải bởi ai khác, như ba người bạn kia đang làm cho Gióp.
Phần luận lẽ thứ hai của Êlihu, ấy là đau khổ
không luôn luôn chỉ ra cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời, mà đôi khi chỉ ra tình
yêu của Đức Chúa Trời là một vị giáo sư thật dịu dàng. Ông nói: “Có
giáo sư nào giống như Ngài chăng?” (36:22).
Sau khi mô tả thể nào Đức Chúa Trời dạy dỗ qua đau khổ, ông nói:
“Lòng giả hình tích chứa sự thạnh nộ; Khi Đức
Chúa Trời bắt xiềng chúng, chúng chẳng kêu cứu. Chúng chết đang buổi thanh
xuân; Đời chúng bị hư mất trong bọn gian dâm. Đức Chúa Trời dùng sự hoạn nạn mà
cứu kẻ bị hoạn nạn, và nhờ sự hà hiếp mà mở lỗ tai của người. Ngài cũng chắc đã
muốn dụ ông khỏi hoạn nạn, đặt ông nơi khoảng khoát, chẳng còn sự cực lòng; Còn
các món ăn dọn nơi bàn ông, tất đều được đầy mỡ béo” (Gióp 36:13-16).
Nhưng sự thực là, Êlihu lưu ý, Gióp đã không nghe theo huấn
thị của Đức Chúa Trời, rồi vì thế “Sự xét đoán và sự hình phạt chắc sẽ hãm bắt
ông” (36:17). Giống như Solomon, dường như ông đang nói với Gióp: “Chớ
khinh điều sửa phạt của Đức Giê-hô-va, Chớ hiềm lòng khi Ngài quở trách; Vì Đức
Giê-hô-va yêu thương ai thì trách phạt nấy. Như một người cha đối cùng con trai
yêu dấu mình” (Châm
ngôn 3:11-12).
Phần luận lẽ thứ ba của Êlihu, ấy là Đức
Chúa Trời không bị ràng buộc bởi những sự trông mong của chúng ta. Không giống
như ba người kia, ông không muốn đặt Đức Chúa Trời vào một cái hộp hầu cho Ngài
phải trừng phạt kẻ ác và ban thưởng cho người công bình. Ba người kia đã dựng
lên điều luật kín về nhân quả, tội lỗi và hình phạt, mặc dù chính mình Đức Chúa
Trời không thể dụng đến; Ngài bị buộc phải làm theo điều luật đó, chúng ta
không thể khiến Đức Chúa Trời phải làm theo những luật lệ và quy tắc mà chúng
ta dựng nên với trí hiểu có hạn của mình. Đức Chúa Trời đang tể trị. Ngài có thể
làm bất cứ điều chi Ngài thích; Ngài có thể cư xử theo cách Ngài chọn lựa. Không
một ai có thể ngăn chặn được Ngài hay cảm trở Ngài. “Ai có chỉ dạy cho Ngài
biết con đường của Ngài? Và ai nói rằng: Chúa có làm quấy?” (36:23). Và: “Khi Ngài ban cho bình an, ai sẽ làm cho rối
loạn? Khi Ngài ẩn mắt mình, ai có thể thấy Ngài?” (34:29).
Phần luận lẽ thứ tư, và là phần quan trọng nhất của Êlihu,
ấy là chúng ta không thể lường được đường lối của Đức Chúa Trời và không thể hiểu
nổi lời lẽ của Ngài, vì vậy quả là chẳng thích đáng cho chúng ta khi tố giác Đức
Chúa Trời về sự bất công. Thay vì thế, chúng ta nên đầu phục và chờ đợi cách nhẫn
nhục. “Phải, Đức Chúa Trời là
cực đại, chúng ta không biết được Ngài; Số năm của Ngài thọ không ai kể xiết được” (36:26). Và: “Đức Chúa Trời phát tiếng và sấm rền ra lạ
kỳ; Ngài làm những công việc lớn lao mà chúng ta hiểu không nổi?” (37:5). Giống như
Phaolô, là người sau khi mô tả ân sũng lạ lùng của Đức Chúa Trời trong công tác
của Ngài về sự cứu rỗi, ông nói như sau:
“Ôi! sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn
ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường
nẻo của Ngài nào ai hiểu được! Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của
Ngài?” (Rôma 11:33-34; đối chiếu Êsai
40:13).
Một khi chúng ta không thể dò được đường lối của Đức Chúa
Trời và không thể hiểu hết được mọi công việc của Ngài, phần luận lẽ của Êlihu,
ấy là chúng ta không thể đổ thừa Đức Chúa Trời về sự bất công. Chúng ta phải giả
định rằng Ngài không thể làm quấy, mặc dù điều đó chẳng có ý nghĩa gì đối với
chúng ta. “Quả
thật Đức Chúa Trời không làm ác, Đấng Toàn Năng chẳng trái phép công bình” (34:12). Và: “Luận về Đấng Toàn Năng, ta không tìm thấy đến
Ngài được: Ngài vốn rất quyền năng, rất chánh trực và công bình cực điểm, không
hề hà hiếp ai” (37:23). Không những
Đức Chúa Trời chỉ làm điều gì là thiện, chúng ta phải đi một bước xa hơn và giả
định rằng bất cứ chi Ngài làm đều là tốt cả, mặc dù điều đó chẳng có ý nghĩa gì
với chúng ta và dường như không thỏa mãn tiêu chuẩn đúng và sai của chúng ta. Một
lần nữa: “Quả
thật Đức Chúa Trời không làm ác, Đấng Toàn Năng chẳng trái phép công bình” (34:12).
Vì vậy, việc duy nhứt chừa lại cho con người phải làm là
tin cậy và vâng lời – đầu phục rồi nhịn nhục chờ đợi. Thà là đầu phục còn hơn
là đòi hỏi sự giải thích. Thà là kính sợ Ngài còn hơn là khôn ngoan theo mắt
mình, . . . vì “Ngài không đoái đến kẻ nào tưởng mình có
lòng khôn ngoan” [37:24]. Êlihu chỉ
nhìn thấy hai trường hợp cho con người ở trước mặt Đức Chúa Trời: vâng lời và được
phước, hoặc bất tuân rồi bị hư mất:
“Nếu chúng vâng nghe và phục sự Ngài, Thì
các ngày chúng sẽ được may mắn, và những năm chúng được sự vui sướng. Nhưng nếu
họ không khứng nghe theo, ắt sẽ bị gươm giết mất, và chết không hiểu biết gì” [36:11-12].
Êlihu trong phần luận lẽ của mình đã đi xa hơn ba người bạn
kia. Thứ nhứt, thay vì giả định một tội lỗi đặc biệt
nào đó trong quá khứ, ông quở trách Gióp vì thái độ tội lỗi và việc tự xưng
công bình trong hiện tại. Thứ hai, ông chỉ ra mọi rối rắm
không luôn luôn nói tới cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời, nhưng đôi khi nói tới
tình yêu của Đức Chúa Trời trong vai trò một vị giáo sư dịu dàng. Nhưng, thứ ba, và quan trọng nhất, ông
chỉ ra bổn tánh của Đức Chúa Trời và quyền tể trị của Ngài trên đời sống của một
người. Đức Chúa Trời không bị ràng buộc bởi mọi kỳ vọng của chúng ta. Chúng ta
không thể dò được đường lối của Đức Chúa Trời, và chúng ta không thể hiểu trọn được
công việc của Ngài. Và vì thế, chúng ta không thể đổ thừa cho Đức Chúa Trời vì
sự bất công, nhưng chúng ta đầu phục Ngài rồi kiên nhẫn chờ đợi cho tới chừng
nào Ngài đưa chúng ta ra khỏi tình trạng đau khổ. Thà là đầu phục, còn hơn là đòi
hỏi sự giải thích; thà là kính sợ Ngài còn hơn là sống khôn ngoan theo mắt mình.
J. Sidlow Baxter cung ứng một tóm tắt đẹp về lời lẽ của
Êlihu:
Ông nhìn thấy
mục đích khác biệt và siêu việt
trong đau khổ so với những gì Êlipha, Binhđát và Xôpha đã nhìn thấy. Mục đích ấy
thuộc linh hơn và cao cả hơn nhiều. Ba diễn giả kia hết thảy đều có bàn tay bàn
chân bị trói buộc bởi lý thuyết cho rằng đau khổ là hình phạt của việc phạm tội
trong quá khứ. Êlihu đi xa hơn thế, ông đến với một ý nghĩa thật hơn và rộng
rãi hơn. Đau khổ không mang tính cách hình phạt; mà nó còn mang sự chỉnh sửa. Không những đau khổ là hình sự; mà nó còn là đạo đức nữa. Không những nó đến
với kẻ bị sửa phạt; mà nó còn đến với người được phục hồi nữa. Nó không luôn luôn đến chỉ để hình phạt thôi đâu; nó
thường đến để
kềm chế nữa. Không những đó là
cây gậy của vị quan tòa; mà nó còn là cây trượng của người chăn chiên nữa.
Đối với điều nầy, Gióp chẳng có một phản ứng nào cả; ông
giữ im lặng! Lời lẽ của Êlihu cũng dọn đường cho lời lẽ của Đức Chúa Trời. Một
trong những việc mà Êlihu đã tìm cách nhấn mạnh về quyền tễ trị của Đức Chúa Trời
thì đúng là những gì Đức Chúa Trời sắp sửa phán với Gióp!
Bất chấp mọi sự nầy, Êlihu không có một bức tranh trọn vẹn.
Ông không thể có một bức tranh hoàn toàn, vì “Ngày nay chúng ta xem
như trong một cái gương…” (I
Côrinhtô 13:12). Ông không và không thể cung ứng giải pháp cho
nan đề đau khổ xưa cũ của con người. Ông không có câu trả lời thỏa mãn cho Gióp,
hay cho chúng ta. Chỉ có Đức Chúa Trời mới hoàn toàn cung ứng cho giải pháp đó.
Chúng ta tìm kiếm câu trả lời trong sách Gióp cho thắc mắc:
“Tại sao người
công bình phải chịu khổ?” Các giải pháp được đưa ra bởi ba người bạn của
Gióp, Êlipha, Binhđát và Xôpha, không thích ứng với hoàn cảnh của Gióp, họ cũng
không giải thích được nổi khổ của nhiều người trong dân sự của Đức Chúa Trời
ngày hôm nay. Câu trả lời của Êlihu có thể là thần học quá mấu cho nhiều người.
Chúng ta cần những câu trả lời cụ thể. Chúng ta cần một giải pháp thực tiễn, chớ
không phải một luận án về thần học. Chúng ta có thể hết lòng đồng ý với Êlihu, nhưng
ông không cung ứng được một giải pháp cho nan đề đau khổ. Gióp, cũng đồng ý với
những gì Êlihu đã nói và không cung ứng được bất kỳ một sự bài bác nào, như ông
đã làm với ba người bạn kia. Tuy nhiên, ông vẫn đang tìm kiếm câu trả lời cho
nan đề đau khổ của người công bình.
Giờ đây, không chẳng có người nào thành công trong việc
tìm kiếm câu trả lời, chúng ta phải nhìn xem Đức Chúa Trời để có một giải pháp
tối hậu. Gióp không chăm về bạn bè mình để có những giải đáp đâu. Họ là những vị
khách không mời mà đến và chẳng được hoan nghênh cũng như có những lời bình
không hay lắm. Đối với Gióp, và đối với chúng ta, nếu có bất kỳ người nào có thể
cung ứng được một giải pháp khả thi cho nan đề đau khổ, thì đó phải là Đức Chúa
Trời. Gióp đang nhìn xem Đức Chúa Trời để có giải đáp tối hậu và thỏa mãn. Thắc
mắc của ông với Đức Chúa Trời là đây: “Số gian ác và tội lỗi
tôi bao nhiêu? Cầu Chúa cho tôi biết sự phạm luật và tội lỗi tôi. Nhân sao Chúa
giấu mặt Chúa, và cầm bằng tôi là kẻ cừu địch Chúa?” (13:23-24). Nói với mấy người bạn, ông than phiền: “Vậy, hãy biết rằng ấy Đức Chúa Trời đã đánh
đổ ta, và giang lưới Ngài chung quanh ta. Nầy tôi kêu la về sự hung bạo, song
tôi chẳng đặng nhậm lời. Tôi kêu cầu tiếp cứu, bèn không có sự công bình” (19:6-7).
Ông đang trông mong Đức Chúa Trời nên trình bày duyên cớ
ông ra trước mặt Ngài, nhưng ông không thể tìm được Ngài:
“Cho đến ngày nay, sự than siết tôi hãy còn
cay đắng, tay đè trên tôi nặng hơn sự rên siết tôi. Ôi! Chớ chi tôi biết nơi
nào tìm được Chúa, hầu cho đi đến trước tòa của Ngài? Tôi hẳn sẽ giãi bày duyên
cớ tôi trước mặt Ngài, và làm đầy miệng tôi những lý luận. Tôi sẽ biết các lời
Ngài đáp lại cho tôi, và hiểu điều Ngài muốn phán cùng tôi” (23:2-5).
Nhưng vấn đề là: ông không thể gặp được Đức Chúa Trời; thậm
chí ông không biết tìm Ngài ở đâu nữa là:
“Nầy, tôi đi tới trước, nhưng không có Ngài
tại đó; Tôi đi lại sau, song tôi cũng chẳng nhìn thấy Ngài; Qua phía tả, khi
Ngài đang làm công việc đó, song tôi không phân biệt Ngài được; Ngài ẩn tại
phía hữu, nên tôi chẳng thấy Ngài” (23:8-9).
“Ôi! Chớ gì nỗi buồn tôi nhắc cân cho đúng,
và các tai nạn tôi để lên cân thăng bằng! Vì hiện giờ nó nặng hơn cát biển; Nên
tại cớ ấy các lời tôi nói đại ra. Bởi vì các tên của Đấng Toàn Năng trúng nhằm
tôi; Tâm hồn tôi uống nọc độc của tên ấy; Sự kinh khiếp của Đức Chúa Trời dàn
trận nghịch cùng tôi. Bởi cớ ấy, tôi chẳng cầm miệng tôi; Trong cơn hoạn nạn của
lòng tôi, tôi sẽ nói ra; Trong cay đắng của linh hồn tôi, tôi sẽ phàn nàn” (6:2-4; 7:11).
Sau cùng, Đức Chúa Trời phán! Giờ đây, chúng ta sẽ có mọi
giải đáp! Bạn có run sợ khi nghe Ngài phán không? Hãy tưởng tượng bạn đang đọc
quyển sách nầy lần đầu tiên trong đời và chưa quen với mọi sự trong sách Gióp. Bạn
sẽ bị chạm đến không những bởi vẻ đẹp thi phú của quyển sách, nhưng còn sâu xa
hơn thế nữa, bởi nổi khổ mà Gióp đã nếm trải. Mặc dù bạn có một ý tưởng nào đó
về những gì đang diễn ra trên các nơi cao, bạn vẫn lấy làm lo khi biết rõ những
gì Đức Chúa Trời sẽ phán cùng Gióp. Khi ấy, bạn đạt tới mức đã được nhắc tới
trong quyển sách: “Bấy giờ, từ giữa cơn gió trốt, Đức Chúa Trời
đáp cùng Gióp rằng” (38:1). Bạn sẽ
nín thở khi nghe thế nào là giải đáp ở đây.
Nhưng, chẳng có một giải đáp nào cả! Chỉ có nhiều câu hỏi
mà thôi! Và thêm những câu hỏi! Rất nhiều câu hỏi! Trên dưới 70 câu trong số đó!
Nếu bạn đọc lời lẽ của Đức Chúa Trời với sự trông mong tìm cho ra câu trả lời
cho nan đề của Gióp, hay cho nan đề đau khổ nói chung, bạn sẽ trở thất vọng
hoàn toàn. Chẳng có chỗ nào nhắc tới rối rắm của Gióp hay tình trạng đáng thương
của ông hoặc tiếng kêu la xin giúp đỡ của ông cùng mọi đòi hỏi phải giải thích.
Có phần mô tả rất hay và nên thơ về quyền phép của Đức Chúa Trời đã tỏ ra qua
các yếu tố khác nhau trong thiên nhiên, song chẳng có một lý giải nào về nan đề
đau khổ.
Ngôn ngữ,
thi phú, sự tưởng tượng phong phú, các ý tưởng cùng những minh họa – hết thảy mọi
sự nầy chắc chắn che khuất mọi sự đã có trước đó, và có lẽ chúng vượt trội hết
mọi nền văn chương, xưa và nay; nhưng chẳng có một lời giải thích hay bàn bạc
gì cả.
Qua lời lẽ của Ngài, Đức Chúa Trời muốn nhắc cho Gióp, và
chúng ta nhớ tới một số việc. Ngài đang nói cho Gióp biết: “Ta là Đức Chúa Trời đời đời, ngươi có đời đời không?” Ngài hỏi: “Khi
ta đặt nền trái đất, thì ngươi ở đâu? Nếu ngươi thông sáng, hãy tỏ bày đi” (38:4). Và:
“Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là đâu?
Còn nơi của tối tăm thì ở đâu? Chớ thì ngươi có thế dẫn nó lại vào địa giới nó
sao? Có biết các đường lối của nhà nó ở chăng? Không sai, người biết mà! Vì ngươi
đã sanh trước khi ấy, số ngày ngươi lấy làm nhiều thay” (38:19-21).
Đức Chúa Trời đặt tên cho các loại thọ tạo, nhỏ và lớn, và
mô tả sự tể trị của Ngài và sự Ngài quan phòng chúng: dê rừng (39:1-4), lừa rừng (39:5-8), con bò tót (39:9-12),
chim lạc đà (39:13-18), ngựa (39:19-25), con diều (39:26-30), con cá sấu (40: 15-24) và (41:1-34). Mọi thứ nầy đều nhận lãnh sức mạnh, quyền lực, khả năng
và tài khéo đến từ Đức Chúa Trời. Ngay cả sự xuẫn ngốc của chim lạc đà không nằm
ngoài chương trình và mục đích của Đức Chúa Trời: “Vì Đức Chúa Trời cất sự
khôn ngoan khỏi nó, không chia phân thông sáng cho nó” (39:20). Đức Chúa Trời dường như đang nói cho Gióp biết: “Ta đã tạo ra các tạo vật nầy; ngươi có thể tạo ra mấy thứ
ấy không? Ta có quyền và tể trị trên mọi thứ nầy; ngươi có thể tạo ra thứ nhỏ
nhất trong các thứ nầy không? Làm sao ngươi hiểu được đường lối của ta với con
người, khi nào thì ngươi có thể hiểu và điều khiển mọi thứ mà ta đã dựng nên chứ?
Ngươi là ai mà dám thắc mắc về mọi việc làm của ta chứ?”
Không những Đức Chúa Trời mô tả quyền thế và sự tể trị của
Ngài trên các yếu tố thiên nhiên, mà Ngài còn tể trị trên phạm trù đạo đức nữa.
Ngài có thể thả ra cơn thạnh nộ của Ngài rồi hạ kẻ kiêu ngạo xuống cùng chà nát
kẻ ác. Thắc mắc của Đức Chúa Trời với Gióp là: “Ngươi có
thể làm được như thế không?”
“Ngươi có một cánh tay như của Đức Chúa Trời
chăng? Có thể phát tiếng sấm rền như Ngài sao? Vậy bây giờ, ngươi hãy trang điểm
mình bằng sự cao sang và oai nghi, mặc lấy sự tôn trọng và vinh hiển. Khá tuôn
ra sự giận hoảng hốt của ngươi; Hãy liếc mắt xem kẻ kiêu ngạo và đánh hạ nó đi.
Hãy liếc mắt coi kẻ kiêu ngạo và đánh hạ nó đi; Khá chà nát kẻ hung bạo tại chỗ
nó. Hãy giấu chúng nó chung nhau trong bụi đất, và lấp mặt họ trong chốn kín đáo.
Bấy giờ, ta cũng sẽ khen ngợi ngươi, vì tay hữu ngươi chửng cứu ngươi được!” (40:4-9).
Nhưng nếu ngươi không làm được như thế, ngươi không có
quyền thắc mắc sự công bình của ta hầu ngươi xưng công bình cho mình (39:37).
Thật là thú vị khi thấy đáp ứng của Gióp đối với lời lẽ của
Đức Chúa Trời. Từ hai đáp ứng của Gióp, rõ ràng là ông đã thỏa mãn với giải đáp
của Đức Chúa Trời (39:37-38; 42:1-6).
Nếu Đức Chúa Trời không trả lời cho mọi thắc mắc của ông hoặc cung ứng phần giải
thích cho nổi khổ của ông, làm thế nào ông lấy làm thỏa lòng cho được? Ông đã
nghe thấy gì trong phần đáp ứng của Đức Chúa Trời để rồi ông lấy làm thỏa lòng?
Chúng ta sẽ lứu ý năm việc:
1. Giờ đây tôi nhìn biết Ngài.
Sau khi nghe Đức Chúa Trời phán dạy, Gióp đạt tới mức
nhìn biết Đức Chúa Trời theo một phương thức rất thực và mật thiết. Ông nói: “Trước
lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài” (42:5). Ông không nhìn biết Đức Chúa Trời trước sự việc nầy; ông đã
kính sợ Đức Chúa Trời và đã sống một đời sống đẹp lòng Ngài; ông đã thờ lạy Đức
Chúa Trời bằng lẽ thật. Tuy nhiên, giờ đây ông có được tri thức thực tiễn hơn
và mật thiết về Đức Chúa Trời hơn trước đó. Chấp nhận sự hiện hữu của Đức Chúa
Trời là một việc, nhìn biết quyền phép Ngài, thờ lạy và kính sợ Ngài, còn kinh
nghiệm Đức Chúa Trời theo cách riêng, theo một phương thức đề rồi con người sẽ
bằng lòng phục theo Ngài là một việc khác nữa. Sau khi lần qua các chi tiết của
một số loài thọ tạo tuyệt vời của Đức Chúa Trời, Gióp đã học được về bổn tánh của
Đức Chúa Trời và hiểu rõ là ông có thể nắm lấy Đức Chúa Trời nơi Lời của Ngài, trong
khi khó hiểu được mọi lẽ kín nhiệm của vũ trụ
và công việc của Đức Chúa Trời và những lý do tại sao ông phải chịu khổ.
Tri thức và quen biết cá nhân đối với Đức Chúa Trời là ưu
tiên một của Đức Chúa Trời cho bất kỳ môn đồ nào của Ngài và nhiều lần Đức Chúa
Trời sử dụng đau khổ để kéo con cái Ngài đến gần Ngài hơn. Như Phierơ lưu ý:
“hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát,
dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức
Chúa Jêsus Christ hiện ra” (I Phierơ
1:7).
Có khi đau khổ trở thành phước hạnh đội lốt khi nó dẫn
chúng ta đến gần Đức Chúa Trời hơn và đến với một sự hiểu biết sâu sắc hơn về
Ngài. Như Phaolô đã nói:
“Nhưng Chúa phán rằng: Ân điển ta đủ cho ngươi
rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vậy, tôi sẽ rất vui
lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong
tôi. Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng
ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (II Côrinhtô 12:9-10).
Hoặc, như Giacơ lưu ý:
“Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề
thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, vì biết rằng sự thử thách đức
tin anh em sanh ra sự nhịn nhục. Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu
cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào” (Giacơ 1:2-4).
2. Giờ đây, tôi nhìn biết mình.
Khi Gióp nhìn biết Đức Chúa Trời, ông đang nhìn biết mình.
Khi Đức Chúa Trời tự tỏ chính mình Ngài ra và tỏ ra sự rực rỡ của Ngài nơi loài
thọ tạo trước mắt Gióp, ông đạt tới mức nhìn biết Đức Chúa Trời là ai và bản
thân ông là ai ở trước mặt Đức Chúa Trời. Như một kết quả, ông xưng nhận: “Tôi
vốn là vật không ra gì”, và “Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, và ăn năn
trong tro bụi” (39:37; 42:6). Ở đây,
ông không gớm ghê mình vì cả ngọn núi rối rắm đang đè trên ông, như ông đã có ở
chương 3. Ông cũng chưa ăn năn vì một tội lỗi cụ thể nào đó trong cuộc đời ông.
Nhưng sau khi ông đạt tới mức nhìn biết Đức Chúa Trời một cách mật thiết, ông đạt
tới chỗ nhìn biết mình là ai ở trước mặt Đức Chúa Trời và lấy làm gớm ghê mình
vì đã dám thắc mắc về mọi việc làm của Ngài và ăn năn tội lỗi đó. “Tôi là ai ở trước mặt Ngài mà dám thắc mắc về mọi việc
làm của Ngài?” “Tôi là ai mà dám đổ thừa Ngài về sự bất công?” Ông lấy làm gớm ghê bản
thân mình và ăn năn vì những sự việc nầy. Đây chính xác là những gì Êlihu quở
trách:
“Quả ông có nói đến tai tôi, tôi đã nghe tiếng
lời của ông nói rằng: tôi trong sạch, không có vi phạm; tôi vô tội, và trong
lòng tôi chẳng có gian ác gì. Dầu vậy, Đức Chúa Trời tìm dịp đối địch tôi, cầm
tôi như kẻ thù nghịch Ngài; Ngài riết chân tôi vào cùm, và coi chừng đường lối
tôi. Nầy, tôi muốn đáp với ông rằng trong các lời ấy ông nói vô lý; Vì Đức Chúa
Trời là lớn hơn loài người” (33:8-12).
Con người chưa nhìn biết bản thân mình cho tới chừng nào
người nhìn biết Đức Chúa Trời. Sánh với nhiều người khác, có thể ông có lý do để
khoe khoang hay cảm thấy siêu việt, giống như người Pharisi sánh mình với người
thu thuế (Luca 18:9-14). Nhưng
khi con người nhìn biết Đức Chúa Trời rồi tự đặt mình vào ánh sáng của sự hiểu
biết đó, người đạt tới chỗ nhìn biết vị trí mình đang đứng. Khi Môise đứng trước
mặt Đức Chúa Trời, ông nhìn nhận: “Tôi là ai, dám đi đến Pha-ra-ôn, đặng dắt dân Y-sơ-ra-ên ra
khỏi xứ Ê-díp-tô?” (Xuất Êdíptô ký 3:11). Khi tiên tri Êsai đứng
trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết, ông nhìn nhận: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời
tôi rồi! Vì tôi là người có môi dơ dáy, ở giữa một dân có môi dơ dáy, bởi mắt
tôi đã thấy Vua, tức là Đức Giê-hô-va vạn quân!” (Êsai 6:5). Khi Simôn Phierơ nhận biết mình đang đứng trước
mặt ai: “ông liền sấp
mình xuống ngang đầu gối Đức Chúa Jêsus, mà thưa rằng: Lạy Chúa, xin ra khỏi
tôi, vì tôi là người có tội” (Luca 5:8).
Trước mặt Đức Chúa Trời Chí Cao, con người là vô nghĩa. Trước
mặt Đức Chúa Trời thánh khiết, con người là tội lỗi. Trước mặt Ngài là Đấng ban
bố và nâng đỡ sự sống, con người không có quyền gì hoặc đòi hỏi gì hết, ngay cả
xin một sự giải thích về mọi hành động của Ngài. Như Đức Chúa Trời đã phán: “Ai
ban cho ta trước đã, mà ta phải trả lại cho?” (41:2).
Ngài không phải là tôi tớ của tôi để Ngài phải vâng theo lịnh lạc của tôi. Ngài
không cần phải đưa ra một lời giải thích hay cầu xin ơn tha thứ của tôi nếu
Ngài làm việc chi mà tôi không thích. Gióp nói: “Bây
giờ, tôi nhìn biết Ngài và nhờ đó tôi nhìn biết bản thân mình. Tôi là ai mà dám
thắc mắc về mọi việc làm của Ngài hay xin một lời giải thích về cách Ngài đối xử
với tôi? Tôi không xứng đáng và tôi lấy làm gớm ghê tôi rồi ăn năn trong tro bụi
vì dám làm như thế”.
3. Ngài có thể làm được mọi sự.
Giờ đây Gióp đạt tới mức nhìn biết Đức Chúa Trời đang tể
trị. Không một ai có thể ngăn Ngài không làm bất cứ điều gì mà Ngài muốn làm: “Tôi
biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự, chẳng có ý chỉ nào Chúa lấy làm khó lắm” (42:2). Nếu Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, ai có thể ngăn Ngài
không làm những gì Ngài muốn làm? Qua sự tỏ ra quyền phép của Ngài trên loài thọ
tạo và trình tự đạo đức trong cõi vũ trụ, Đức Chúa Trời dường như muốn nói cho
Gióp biết: “Ta là Đức Chúa Trời của vũ trụ và ta
muốn làm bất cứ điều chi đẹp lòng ta”. Như tác giả Thi thiên đã công bố: “Đức
Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã
làm” (Thi thiên 115:3), và “Điều
nào đẹp ý Đức Giê-hô-va làm, Ngài bèn làm điều nấy, hoặc trên trời, dưới đất, trong
biển, hay là trong các vực sâu” (Thi
thiên 135:6). Nêbucátnếtsa đã xưng nhận:
“Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có;
Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng
ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?” (Đaniên 4:35).
Tất nhiên, bản thân Gióp đã nói trước kia: “Nhưng
Chúa đã một ý nhất định, ai làm cho Ngài đổi được? Điều gì lòng Ngài muốn, ắt
Ngài làm cho thành” (23:13). Nhưng ở đó,
câu nói nầy mang hình thức của sự than phiền. Ở đây, đây là lời xưng nhận về sự
thực; ông đạt tới chỗ nhìn biết lẽ thật ấy theo một phương thức rất cá nhân. Ông
công nhận quyền tể trị của Đức Chúa Trời trên đời sống cá nhân ông và từ bỏ mọi
quyền hạn và các đòi hỏi của ông ở trước mặt Chúa Chí Cao.
Vì vậy, chỉ có một việc còn lại cho Gióp và cho chúng ta:
đầu phục – hoàn toàn, đầu phục không đổi lại – đầu phục không có bất kỳ một thắc
mắc hay than phiền nào. Như tác giả bài thánh ca đã viết: “Lạy Chúa, chỉ có đường Ngài, chỉ có đường Ngài” và “Chỉ có tin cậy vâng lời, chẳng có con đường nào khác để được
phước”.
Như Phierơ bình luận:
“Vậy, hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức Chúa Trời,
hầu cho đến kỳ thuận hiệp Ngài nhắc anh em lên; lại hãy trao mọi điều lo lắng
mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (I Phierơ 5:6-7).
4. Tôi biết được những việc quá tuyệt vời.
Không những Đức Chúa Trời chí cao không bị buộc phải
trình sổ về mọi hành động của Ngài, thậm chí nếu như Ngài có làm vậy đi nữa, chúng
ta sẽ chẳng hiểu nổi được. Đức Chúa Trời tuyên bố qua tiên tri Êsai:
“Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi,
đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao
nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng
các ngươi cũng bấy nhiêu” (Êsai
55:8-9).
Hay, như Solomon đã nói:
“Khi ta chuyên lòng để học biết sự khôn ngoan, để hiểu mọi việc
làm ra trên đất, thì ta thấy có người ngày và đêm không cho mắt ngủ, cũng thấy
mọi công việc của Đức Chúa Trời, và hiểu biết người ta không thể dò được mọi việc
làm ra dưới mặt trời, dầu chịu cực nhọc ngần nào đặng tìm biết, cũng chẳng tìm được;
và dầu cho người khôn ngoan tưởng rằng sẽ chắc biết, thì cũng chẳng tìm được” (Truyền đạo 8:16-17).
Êlihu đã nói đi nói lại điều nầy: “Phải, Đức Chúa Trời là cực đại, chúng ta
không biết được Ngài; Số năm của Ngài thọ không ai kể xiết được” (36:26). Và: “Đức Chúa Trời phát tiếng và sấm rền ra lạ
kỳ; Ngài làm những công việc lớn lao mà chúng ta hiểu không nổi?” (37:5). “Luận về Đấng Toàn Năng, ta không tìm thấy đến
Ngài được: Ngài vốn rất quyền năng, rất chánh trực và công bình cực điểm, không
hề hà hiếp ai” (37:23). Chính Gióp đã
nói: “Ngài làm những việc lớn
lao, không sao dò xét được, những dấu kỳ chẳng xiết cho được” (9:10).
Chúng ta không biết, và không thể biết hết được, các công
việc của Đức Chúa Trời vì chúng ta không có nguyên bức tranh. Chúng ta không biết
điều chi sẽ xảy ra ở đàng sau bức màn ở các nơi trên trời. Như Phaolô đã nói: “Vì chưng chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn” và “ngày nay chúng ta xem như trong một cái gương, cách mập mờ” (I Côrinhtô 13:9, 12). Chúng ta không thể biết
hết Đức Chúa Trời và mọi công việc Ngài cho bằng Ngài nhìn biết chúng ta thật
trọn vẹn, và chúng ta không thể hiểu hết được mục đích và lý do ở đàng sau mọi
sự mà Ngài đang làm.
Con người cố gắng tìm hiểu công việc của Đức Chúa Trời giống
như câu chuyện kể về mấy người mù cố gắng hình dung con voi là loại tạo vật như
thế nào vậy!?! Một người nắm lấy cái đuôi của nó rồi cho rằng con voi giống như
sợi dây thừng. Người kia nắm lấy chơn của nó rồi cho rằng con voi giống như cây
cột vậy; và cứ thế. Nhưng không có ai trong số họ có ý tưởng lờ mờ nào về việc
con voi là loại tạo vật như thế nào cả. Mỗi người có một sự hiểu biết riêng, nhưng
không ai trong số họ có bức tranh toàn vẹn. Việc lý thú, ấy là nếu có ai thấy
rõ rồi tìm cách mô tả một con voi cho mấy người mù nầy biết, họ không thể hiểu được
phần mô tả của người kia; có lẽ còn làm dấy lên nhiều thắc mắc trong lý trí của
họ nữa.
Hết thảy chúng ta đều giống như mấy người mù khi nói tới
tri thức của chúng ta về Đấng Chí Cao. Nếu chúng ta kinh nghiệm một số nan đề
hay thử thách hoặc đau khổ, chúng ta xét đoán Đức Chúa Trời từ kinh nghiệm đó rồi
nghi ngờ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Khi chúng ta nhìn thấy tình trạng
gian ác và bất công ở chung quanh chúng ta và nhìn thấy kẻ ác được thịnh vượng
còn người công bình thì chịu đau khổ, chúng ta có khuynh hướng thắc mắc hệ thống
công bình của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nhìn thấy chiến tranh, đói kém, động đất
cùng sự hủy diệt và đau khổ rộng khắp, chúng ta dám thắc mắc sự tể trị của Đức
Chúa Trời trên vũ trụ. Chúng ta xét đoán Đức Chúa Trời, bổn tánh Ngài, tình yêu
Ngài, hoặc thiếu mất tình yêu ấy, trên cơ sở những gì chúng ta xem thấy ở chung
quanh chúng ta mà chẳng có bức tranh trọn vẹn và đầy đủ về Ngài và mọi mục đích
của Ngài ở đàng sau mọi sự đang xảy ra ở dưới mặt trời. Chúng ta, với lý trí và
sự hiểu biết hữu hạn, sẽ chẳng bao giờ hiểu được mọi chương trình và mục đích của
Đức Chúa Trời, một là với những việc đang xảy ra ở chung quanh chúng ta trong
thế gian hay với những gì Đức Chúa Trời đang làm trong đời sống mỗi cá nhân của
chúng ta. Sau cùng, Gióp đạt tới chỗ nhận biết: “Phải, tôi đã nói những điều
tôi không hiểu đến, tức các sự lạ lùng quá cho tôi, mà tôi chẳng thông biết” (42:3).
Đức Chúa Trời luôn luôn có một mục đích không lộ ra trong
mọi chương trình và mục tiêu của Ngài dành cho đời sống chúng ta. Trong trường
hợp của Gióp, chúng ta, hạng độc giả, được cung ứng cho cái nhìn thoáng qua những
gì đang diễn ra ở các nơi trên trời. Nhưng thắc mắc là: “Tại sao Đức Chúa Trời không tỏ điều đó ra cho Gióp? Chẳng lẽ
như thế lại không dễ dàng cho Gióp nếm trải nổi khổ ghê gớm nếu ông biết được mục
đích của Đức Chúa Trời ở đàng sau đau khổ đó sao?” Nhưng đấy chính xác là
mục tiêu của cả quyển sách! Thế thì đấy chẳng phải là bài thử nghiệm thực về bản
tánh của ông, cũng chẳng có một chỗ nào cho sự luyện tập đức tin chân chính của
ông. Thí dụ, hãy tưởng tượng Đức Chúa Trời đang yêu cầu Ápraham phải dâng Ysác
con trai ông rồi nói cho ông biết rằng ông sẽ chẳng được giết nó xem. Như Mục sư
Baxter lưu ý:
Có một số việc về đau khổ
của con người mà Đức Chúa Trời nhất định không thể giải thích cho chúng ta biết
mà chẳng hủy diệt chính mục đích mà họ được ấn định phải chu toàn.
5. Tôi nhìn thấy mặt
Ngài là đủ rồi.
Hết thảy mọi sự được nhắc tới trên đây đều quan trọng để
biết đối với Gióp, và đối với chúng ta. Tuy nhiên, việc quan trọng nhất mà Gióp
đạt tới chỗ nhận biết trước tiên từ kinh nghiệm của ông, ấy là Đức Chúa Trời
yêu thương ông; Ngài quan tâm đến ông, và Ngài chăm sóc đủ tôi tớ Ngài nên mới
trò chuyện với ông.
Trong một thời gian dài, Đức Chúa Trời đã im lặng. Dường
như Ngài đã giấu mặt Ngài đối với Gióp. Vì cớ điều nầy, Gióp đã giả định rằng Đức
Chúa Trời chẳng quan tâm, rằng Ngài đã trở thành kẻ thù nghịch của ông. Gióp đã
nói:
“Trong cơn thạnh nộ người xé tôi và bắt bớ
tôi; Người nghiến răng nghịch tôi, kẻ cừu địch tôi trừng ngó tôi” (giống như con sư tử ngó miếng mồi trước khi vồ lấy nó). Tôi
xưa bình tịnh, Ngài bèn tàn hại tôi; Ngài có nắm cổ tôi, và bẻ nát tôi, cũng đặt
tôi làm tấm bia cho Ngài. Các mũi tên Ngài vây phủ tôi, Ngài bắn lưng hông tôi,
không thương tiếc, đổ mặt tôi xuống đất. Ngài làm cho tôi bị thương tích này
trên thương tích kia, xông vào tôi như một kẻ mạnh bạo” (16:9, 12-14).
Gióp nghĩ Đức Chúa Trời đang che giấu mặt Ngài đối với
ông (23:8-9) và không muốn trò chuyện
cùng ông (19:7; 30:20).
Việc khó khăn nhất đối với Gióp không phải là mọi sự ông
có đã tiêu mất chỉ qua một đêm, hay thậm chí tất cả 10 đứa con của ông cũng bị
tiêu diệt hết. Đối với việc nầy, đáp ứng của ông là: “Đức Giê-hô-va đã ban
cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va!” (1:21). Ngay cả phần cơ thể của ông đã bị đầy với ghẻ chốc đau đớn.
Đáp ứng với vợ mình về việc nầy, ông nói: “Ủa sao! Sự phước mà tay
Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài
giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?” (2:10).
Ông có khả năng đứng vững ngay cả trước mặt mấy người bạn lúc nào cũng nói vu
cho mình. Nhưng việc khó mang nổi đối với Gióp, ấy là Đức Chúa Trời đã trở
thành kẻ thù nghịch của ông, và Ngài đã xây mặt đi đối với ông.
Bạn bè của ông tìm kiếm lý cớ cho mọi rối rắm nơi chính
mình Gióp. Nhưng ông, sau nhiều lúc tự xét mình, không tìm thấy lý cớ nào nơi bản
thân cho mọi rối rắm đó. Ông nói với bạn bè mình trong sự tin quyết:
“Khi tôi đoán xét, không thể nào cho các bạn
là phải! Cho đến kỳ chết, tôi chẳng hề thôi quả quyết rằng tôi trọn vẹn. Tôi giữ
chặt sự công bình mình, không rời bỏ nó; Trọn đời tôi, lòng tôi sẽ chẳng cáo
trách tôi” (27:5-6).
Kết quả, ông giả định nguyên nhân của mọi nan đề mình nằm
ở Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã trở thành thù nghịch của ông!
Sau cùng, khi Đức Chúa Trời phán cùng ông, ông lấy làm thỏa
mãn. Như một kết quả của việc ông gặp gỡ Đức Chúa Trời, Gióp học biết được rằng
Đức Chúa Trời đã không từ bỏ ông. Ông đạt tới chỗ nhìn biết rằng ngay cả việc
không biết lý cớ ở đàng sau nổi đau khổ của ông, ông có thể đối diện với nó, bao
lâu ông dám chắc rằng Đức Chúa Trời vẫn còn là thiết hữu của ông. Đấng Tạo Hóa
của toàn bộ vũ trụ sẵn sàng trò chuyện với ông theo cách riêng là đủ cho ông rồi.
Ông gặp gỡ Đức Chúa Trời, mọi thắc mắc của ông đều được giải đáp ở nơi Ngài. Mọi
hồ nghi của ông đã tan biến đi. Mọi trông mong đều được phu phỉ. Mọi ao ước đều
được thỏa. Giờ đây, chẳng có nhu cần nào về sự giải thích nữa.
Lời than vãn của Gióp vốn sâu sắc, ấy là ông tìm kiếm Đức
Chúa Trời song ông chẳng gặp Ngài ở đâu cả (23:3-9).
Nhưng có phải ông thực sự tìm kiếm Đức Chúa Trời không? Ông không tìm kiếm Đức
Chúa Trời; ông đang tìm kiếm những câu trả lời, những sự giải thích, để mà minh
chứng. Tuy nhiên, vì cớ tình yêu của Ngài dành cho tôi tớ Ngài, Đức Chúa Trời
bày tỏ chính mình Ngài ra cho tôi tớ Ngài khi ông không tìm kiếm Ngài. Như
trong Êsai, Đức Chúa Trời phán về Israel , dân sự Ngài:
“Những kẻ vốn chẳng cầu hỏi ta thì đã hỏi thăm ta; những kẻ vốn
chẳng tìm ta thì đã gặp được ta. Ta đã phán cùng một dân chưa kêu cầu danh ta,
mà rằng: Ta đây, ta đây!” (Êsai
65:1).
Đấy là ân điển! Và khi Gióp kinh nghiệm ân điển đó, chẳng
còn cần phải thắc mắc chi nữa.
Tại sao người công bình phải chịu khổ? Bạn bè của Gióp không
có câu trả lời. (Hiển nhiên, câu trả lời
của họ, ấy là người nào sống công bình thì không chịu khổ, và nếu người chịu khổ,
bởi nổi khổ của người, thì rõ ràng, người ấy thực sự chưa sống công bình!) Gióp
không có câu trả lời. Chúng ta không có câu trả lời. Đức Chúa Trời không trả lời
cho câu hỏi nầy, Ngài cũng không bị buộc phải trả lời. Thế thì, chúng ta tìm đâu
giải đáp cho nan đề đau khổ? Câu trả lời được thấy nơi phần đáp ứng của Gióp đối
với Đức Chúa Trời.
Từ cuộc gặp gỡ với Đức Chúa Trời, Gióp đạt tới chỗ nhận
biết thay vì tìm kiếm giải pháp cho nổi đau khổ của chúng ta, thà là ông vâng
phục Đức Chúa Trời và tin cậy nơi Ngài, giải pháp tối hậu được tìm thấy ở nơi
Ngài. Thay vì thắc mắc tình yêu của Đức Chúa Trời, sự công bình của Đức Chúa Trời,
và mọi tình thế thích ứng nơi mọi hành động của Ngài, tốt hơn là tin cậy Ngài một
cách hoàn toàn. Tin Đức Chúa Trời chỉ làm điều chi là thiện là chưa đủ; nhưng
chúng ta phải chấp nhận bất cứ điều chi Ngài làm đều là thiện khi, và đặc biệt
khi, dường như việc ấy chẳng có gì là thiện hết. Tác giả Thi thiên nói: “Chúa
là thiện và hay làm lành; Xin hãy dạy tôi các luật lệ Chúa” (Thi thiên 119:68). Đức Chúa Trời không trả lời
cho mọi thắc mắc của Gióp, dường như muốn nói cho Gióp biết: “Vì
ta biết ý tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai
họa, để cho các ngươi được sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình” (Giêrêmi 29:11).
1. Đau khổ là một phần
trong kế hoạch và chương trình của Đức Chúa Trời. Đau khổ không luôn luôn chỉ
ra cơn thạnh nộ của Ngài, mà chỉ ra tình yêu thương của Ngài.
2. Chúng ta không thể hiểu
trọn được mọi công việc của Đức Chúa Trời; chúng ta nhìn thấy cách mờ mờ giống
như nhìn trong gương vậy.
3. Đức Chúa Trời là Đức
Chúa Trời; chúng ta không thể nhốt Ngài trong một cái hộp.
4. Đức Chúa Trời không hề
làm điều chi xấu xa cho dân sự Ngài. Trong lúc hoạn nạn, thà là tin cậy Ngài trọn
vẹn hơn là nghi ngờ tình yêu thương của Ngài.
Sách Gióp không giải quyết nan đề đau khổ, nhưng sách ấy
nói cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời, về sự tể trị của Ngài, về sự nhơn từ
Ngài, và về tình yêu thương của Ngài. Khi chúng ta nhìn biết mọi sự nầy, chúng
ta không cần được giải đáp cho mọi thắc mắc của chúng ta nữa.
Sách Gióp, như chúng ta đã lưu ý trước đây, không trả lời
cho thắc mắc: “Tại sao người công bình
phải chịu khổ?” Sách ấy chỉ dẫn tới phần kết luận, dựa trên kinh nghiệm của Gióp và
đáp ứng sau cùng của ông trước sự giải bày của Đức Chúa Trời, nghĩa là thay vì
tìm kiếm giải pháp, tốt hơn là hãy đầu phục và tin cậy Đức Chúa Trời, giải pháp
tối hậu được tìm thấy ở nơi Ngài. Lý do sách Gióp là một nguồn yên ủi cho nhiều
tín đồ đang nếm trải đau khổ ghê gớm không phải là sách ấy cung ứng một số lý
do ở đàng sau kinh nghiệm khó nhọc của họ, nhưng vì chúng ta có thể đồng hóa với
Gióp. Những tai vạ và đau khổ trong đời sống chúng ta, bất luận nghiêm trọng dường
nào, sẽ không đủ để so sánh với những gì Gióp đã kinh nghiệm. Khi nhìn biết người
khác đã chịu khổ như chúng ta đã chịu, hoặc có khi trầm trọng hơn, có thể là một
nguồn yên ủi thực sự. Như Phaolô đã nhắc nhở khi nói tới sự cám dỗ: “Những
sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người" (I Côrinhtô 10:13a). Hay, như Phierơ đã nói
khi nói tới sự bắt bớ: “Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự
nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như
mình” (I Phierơ 5:9).
Sách Gióp không trả lời cho câu hỏi đó: “Tại sao người công bình phải chịu khổ?” vì đấy không phải là thắc
mắc trong cả sách! Mọi nhân vật trong sách đều tìm cách trả lời cho thắc mắc
sai trật đó! Thắc mắc mà sách Gióp đưa lên và trả lời không phải là: “Tại sao người công bình chịu khổ?” mà là: “Tại sao người công bình phục vụ Đức Chúa Trời?”
Đâu là mục đích ở đàng sau phần luận lẽ của Satan? Đâu là
thách thức của hắn đối với Đức Chúa Trời? Thắc mắc của hắn là:
“Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va rằng: Gióp há kính sợ Đức Chúa
Trời luống công sao? Chúa há chẳng dựng hàng rào binh vực ở bốn phía người, nhà
người, và mọi vật thuộc về người sao? Chúa đã ban phước cho công việc của tay
người và làm cho của cải người thêm nhiều trên đất. Nhưng bây giờ hãy giơ tay
Chúa ra, đụng đến hại các vật người có, ắt là người sẽ phỉ báng Chúa trước mặt” (1:9-11).
Đức Chúa Trời nắm lấy phần thách thức và cất bỏ mọi sự ra
khỏi Gióp, kể cả 10 đứa con của ông. Đáp ứng của Gióp, không đúng như Satan mong
đợi: “đáng ngợi
khen danh Đức Giê-hô-va! Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm
thượng cùng Đức Chúa Trời” (1:21-22).
Satan khăng khăng trong những lời vu cáo của hắn: “Lấy da đền da, phàm vật chi một người có,
tất sẽ trao thế cho mạng sống mình. Nhưng bây giờ xin Chúa hãy giơ tay ra, đụng
đến hại xương thịt người, ắt là người sẽ phỉ báng Chúa trước mặt” (2:4-5). Khi Đức
Chúa Trời cho phép Satan đụng đến thân thể của Gióp, đáp ứng của Gióp là: “Ủa sao! Sự phước mà tay Đức Chúa Trời ban
cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng
ta, lại chẳng lãnh lấy sao?” (2:10). Lời vu cáo của Satan nghịch lại Gióp, ấy là ông đã phục vụ Đức
Chúa Trời với một động cơ ích kỷ. Tấm lòng của ông đặt trên phước hạnh vật chất,
trên gia đình ông, trên chính sự sống của ông, chớ không đặt trên chính mình Đức
Chúa Trời. Tại sao ông không phục vụ Đức Chúa Trời một khi Đức Chúa Trời chúc
phước cho ông nhiều đến thế?
Cũng có một lời vu cáo nghịch lại chính mình Đức Chúa Trời
và nghịch với bản tánh của Ngài. Satan đã dám xưng rằng Đức Chúa Trời đã mua lấy
sự thờ phượng của Gióp bằng cách ban cho ông quá nhiều vật chất cùng các ơn phước
khác nữa. Satan tố cáo: “Không một ai thờ lạy Đức
Chúa Trời vì cớ sự thờ phượng cả. Người ta thờ lạy Đức Chúa Trời vì những động
cơ ích kỷ”. Và, kể như Đức Chúa Trời chất phác đến nỗi thậm chí Ngài không
biết người ta đang lợi dụng Ngài và dối gạt Ngài bằng sự thờ lạy tỏ ra bên
ngoài vì lợi ích mà họ nhận lãnh từ nơi Ngài. Đức Chúa Trời bị bịp dễ dàng làm
sao, Satan ám chỉ như thế!
Qua
đáp ứng của Gióp, sách Gióp rõ ràng đang trả lời cho câu hỏi nầy. Gióp đang phục
vụ Đức Chúa Trời không phải vì bất kỳ ơn phước nào ông đã nhận lãnh từ Đức Chúa
Trời, mà vì cớ lòng tin kính thanh sạch, vô kỷ của ông đối với Đức Chúa Trời. Gióp,
qua đáp ứng của ông, cho thấy rằng người tin Chúa thật đã cam kết phục vụ Đức
Chúa Trời không phải vì cớ những phước hạnh ông nhận lãnh từ Đức Chúa Trời, nhưng
bất chấp bất kỳ và từng hoàn cảnh khó khăn nào ông đã nếm trải qua vì cớ sự cam
kết của ông đối với Đức Chúa Trời. Ông nói: “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng
còn nhờ cậy nơi Ngài” (13:15). Khi mọi
sự đã bị cất bỏ đi hết, kể cả hết thảy con cái và sức khỏe của chính ông, lời
khuyên của vợ ông là: “Hãy phỉ báng Đức Chúa Trời, và chết đi!” (2:9). Đây chính xác là điều mà Satan đã tố cáo Gióp sẽ làm! Nhưng
ông đứng vững cho đến cuối cùng bất chấp mọi đau khổ mà ông đang nếm trải.
Tất nhiên, Gióp đòi hỏi sự giải thích, ông thách thức Đức
Chúa Trời trong một vụ xử tại phiên tòa, ông tự biện hộ cho mình, và ông đứng vững
trên mọi lời xưng nhận về sự ngay thẳng và tình trạng không tì vít của ông. Ông
đặt mọi sự đổ thừa về các rắc rối của ông nới chơn của Đức Chúa Trời. Nhưng đâu
đó ông đã tự xây mình khỏi Đức Chúa Trời hoặc phỉ báng Đức Chúa Trời vì cớ mọi
rối rắm của mình, như Satan đã tố cáo và mong đợi.
Sách Gióp cho chúng ta biết rằng người thờ lạy thật đang
thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm thần và lẽ thật, vì họ là loại người thờ phượng
mà Đức Chúa Trời đang tìm kiếm. “Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài
thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy” (Giăng
4:23-24). Đức Chúa Trời chúc phước cho người nào thờ lạy Ngài với
sự tin kính thật trong lòng và người nào muốn sống một đời sống làm đẹp lòng
Ngài. Tấm lòng của người thờ phượng thật không đặt trên các phước hạnh, mà đặt
nơi Đức Chúa Trời, Ngài là nguồn của mọi ơn phước. Thái độ của người thờ phượng
thật là:
“Vì dầu cây vả sẽ không nứt lộc nữa, Và sẽ
không có trái trên những cây nho; Cây ô-li-ve không sanh sản, và chẳng có ruộng
nào sanh ra đồ ăn; Bầy chiên sẽ bị dứt khỏi ràn, và không có bầy bò trong chuồng
nữa. Dầu vậy, tôi sẽ vui mừng trong Đức Giê-hô-va, tôi sẽ hớn hở trong Đức Chúa
Trời của sự cứu rỗi tôi” (Habacúc
3:17-18).
Hay, một lần nữa, như Gióp nói: “Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi
Ngài; Nhưng ta sẽ binh vực tánh hạnh ta trước mặt Ngài” (13:15).
Từ lời mở đầu của sách Gióp, dường như là Satan đang đứng
đàng sau mọi rối rắm của Gióp. Chính mình Đức Chúa Trời nói cho Satan biết: “ngươi
có giục ta phá hủy người vô cớ” (2:3).
Câu nầy tạo ra một ấn tượng cho rằng nếu Satan không dấy lên thắc mắc về Gióp, Gióp
sẽ không chịu khổ rồi.
Tuy nhiên, rõ ràng là Đức Chúa Trời không hành động dưới
sự lèo lái của Satan; Satan đang hành động
dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời. Chúng ta nên để ý, là không phải Satan là kẻ
bắt đầu thắc mắc về Gióp; chính Đức Chúa Trời là Đấng dấy lên một thắc mắc về
ông: “Đức
Giê-hô-va lại hỏi Sa-tan rằng: Ngươi có nhìn thấy Gióp, tôi tớ của ta chăng?” (1:8). Và một lần nữa: “Đức Giê-hô-va lại phán hỏi Sa-tan rằng: Ngươi
có nhìn thấy Gióp, tôi tớ của ta chăng?” (2:3). Đức Chúa Trời vốn biết rõ mọi điều
Satan đang suy nghĩ, và chính mình Đức Chúa Trời đã dấy lên vấn đề rồi cung ứng
cho Satan một cơ hội để xác minh tôi tớ của Ngài.
Từ quyển sách, rõ ràng là không phải Satan là kẻ giáng sự
khổ nạn lên Gióp; mà chính là Đức Chúa Trời. Một khi Satan đang hành động dưới
sự tể trị của Đức Chúa Trời, hắn không thể làm bất cứ điều chi mà chẳng có phép
tắc của Đức Chúa Trời và không thể đi quá những giới hạn do Đức Chúa Trời đề ra.
Lúc đầu, hắn chỉ có thể đụng đến sự giàu có và gia đình của Gióp, chớ không được
đụng đến thân thể của ông. Kế đó, hắn chỉ có thể đụng đến thân thể của ông, chớ
không được đụng đến mạng sống của ông. Chính Đức Chúa Trời là Đấng đã giơ tay
Ngài ra rồi đánh vào mọi sự mà Gióp đã có (1:11),
và kế đó giơ tay Ngài ra đánh vào thịt xương của Gióp (2:5).
Tất cả các nhân vật trong quyển sách đều giả định đúng
bàn tay của Đức Chúa Trời ở đàng sau mọi rối rắm của Gióp. Vợ ông đã cho rằng Đức
Chúa Trời có mặt ở đàng sau mọi rắc rối, và vì thế lời khuyên của bà là: “hãy phỉ báng Đức Chúa Trời
rồi chết đi” một khi Đức Chúa Trời, bà giả định, không ban thưởng cho Gióp vì
sự công bình và trung tín của ông. Tất cả mấy người bạn của Gióp đều giả định Đức
Chúa Trời có mặt ở đàng sau mọi sự nầy, và họ đã cố gắng tìm một lý do để xưng
công bình cho nó.
Gióp cũng giả định bàn tay của Đức Chúa Trời ở đàng sau mọi
đau khổ của ông. Khi mọi sự bị cất đi và tất cả con cái của ông đều bị diệt, ông
nói: “Đức
Giê-hô-va đã ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi” (1:21). Khi nổi khổ nghiệt ngã theo phần xác được giáng lên ông, ông
chấp nhận nó đến từ tay của Đức Chúa Trời (2:10).
Không có chỗ nào trong quyển sách ông đổ thừa cho ai về mọi rối rắm của mình, trừ
ra Đức Chúa Trời:
“Ngài tiêu diệt người trọn vẹn cũng như kẻ
gian ác. Nếu tai họa giết chết thình lình, thì Ngài chê cười sự thử thách của
người vô tội. Đất bị phó vào tay kẻ gian ác; Nó che mặt những quan xét của đất;
Nếu chẳng phải nó, vậy thì ai?” (9:22-24).
Gióp đổ thừa cho bạn bè mình vì không hiểu hoàn cảnh của
ông, vì chẳng có một sự cảm thông nào dành cho ông, và vì đã vu cáo ông về sự
gian ác, nhưng không bao giờ vì mọi rắc rối của mình.
Sự thực cho thấy rằng Satan có mặt ở đàng sau nguyên tội
của Ađam và Êva đã mang lại sự rủa sả trên địa cầu và trên nhân loại thì cũng
chính hắn tiếp tục hoạt động hôm nay dẫn dắt người ta vào chỗ sai lạc. Hắn làm
mù tâm trí của những người chưa tin Chúa, hầu cho họ không trông thấy sự vinh
hiển chói lói của Tin Lành (II
Côrinhtô 4:4). Tuy nhiên, Satan đang hành động dưới sự tể trị của
Đức Chúa Trời, và hắn không thể làm việc gì mà không có phép tắc của Ngài. Không
giống như các tôn giáo trong đông phương, Kinh thánh không cho phép tình trạng
hai mặt của thiện và ác, cả hai đều ngang nhau và cùng tồn tại. Mặc dù Kinh
thánh không mô tả sự căng thẳng giữa thiện và ác, thậm chí trong đời sống của
người tin Chúa (thí dụ, Rôma
7:14-25), điều ác giúp ích cho điều thiện, và Đức Chúa Trời đang
nắm quyền kiểm soát điều ác. Ngài cho phép đau khổ, thậm chí trong đời sống của
một số tôi tớ chọn lọc nhất của Ngài, vì các mục đích tích cực và có lợi (xem Rôma 8:28-39, được
trưng dẫn ở phần mở đâu).
Sau khi xem xét đau khổ và nghịch cảnh từ nhận định hữu hạn
của chúng ta ở dưới mặt trời, có thể chúng ta cảm thấy giống như Gióp: “Ngài
tiêu diệt người trọn vẹn cũng như kẻ gian ác” (9:22).
Hay, như Solomon:
“Lại còn có một sự hư không khác trên thế
gian: lắm người công bình bị đãi theo công việc kẻ ác, và lắm kẻ ác lại được đãi
theo công việc người công bình. Ta nói rằng điều đó cũng là sự hư không” (Truyền đạo 8:14).
Tuy nhiên, sách Gióp chỉ ra rằng Đức Chúa Trời luôn luôn
có mục đích tốt lành ở đàng sau đó và Ngài sử dụng đau khổ để ban phước và gây
dựng cho các tôi tớ Ngài.
Sách Gióp trình bày rõ các giới hạn quyền lực của Satan.
Thứ nhứt, hắn hành động dưới những giới hạn về không gian. Không giống như Đức
Chúa Trời, Satan không phải là toàn năng. Khi Đức Chúa Trời hỏi là hắn ở đâu đến,
lời đáp của hắn là: “Tôi trải qua đây đó trên đất và dạo chơi tại nơi nó” (1:7, 2:2).
Dạo chơi có nghĩa là đi từ chỗ nầy đến nơi kia, từ chỗ hắn
ở đến một chỗ mà hắn không ở. Hắn chỉ có thể đến một nơi vào một lúc nào đó
thôi. Kể từ khi hắn là một hữu thể thuộc linh, việc hắn đi từ chỗ nầy đến nơi
kia có thể xảy ra gần như là ngay lập tức. Điều đó có thể tạo ra ấn tượng là hắn
có mặt ở khắp mọi nơi. Nhưng trong thực tế, hắn không phải vậy đâu, và hắn
không thể được như vậy. Sách I Phierơ cung ứng mục đích của việc dạo chơi không
dễ dàng của hắn; hắn “đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người
nào nó có thể nuốt được” (I Phierơ
5:8). Hắn đã để mắt đến Gióp, và Đức Chúa Trời vốn biết rõ sự ấy;
đấy là lý do tại sao Đức Chúa Trời là Đấng dấy lên thắc mắc về Gióp.
Thứ hai, Satan không thể làm việc gì
mà chẳng có phép tắc của Đức Chúa Trời. Nói như thế có nghĩa là, không giống như Đức
Chúa Trời, hắn không phải là toàn năng đâu. Lúc đầu, hắn chỉ có thể đụng đến
tài sản và gia đình của Gióp; hắn không thể đụng đến thân thể của Gióp. Lần thứ
hai, hắn mới có quyền đụng đến thân thể của Gióp, song chẳng được đụng đến sinh
mạng của ông.
Thứ ba, thực sự hắn không biết tấm lòng của Gióp và thái độ
tin kính vô kỷ chơn thật của ông đối với Đức Chúa Trời. Điều nầy chỉ ra rằng Satan
không phải là toàn tri, giống như Đức Chúa Trời được. Satan dạn dĩ luận rằng sở
dĩ Gióp phục vụ Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời đã ban phước quá nhiều cho ông.
Satan xưng rằng nếu Đức Chúa Trời cất bỏ hết mọi ơn phước: “ắt là người sẽ phỉ báng
Chúa trước mặt” (1:11). Ngay cả khi
Gióp cứ khăng khăng ở vòng đầu thử nghiệm, Satan không mất đi sự tin tưởng của
hắn. Hắn cho rằng: “Chúa giơ tay ra, đụng đến hại xương thịt người,
ắt là người sẽ phỉ báng Chúa trước mặt” (2:5). Từ phần còn lại của
quyển sách, chúng ta biết Satan đã sai lầm là dường nào. Mặt khác, Đức Chúa Trời
vốn biết rõ tôi tớ Ngài sẽ đứng vững trong sự thử nghiệm hay không, và Ngài sẽ
dời đi phần thử thách.
Các giới hạn của Satan có hai hàm ý cho một người tin
Chúa: Thứ nhứt, nó đem lại sự yên ủi thật nhiều để nhìn biết rằng
Đức Chúa Trời đang nắm quyền tể trị, chớ không phải Satan. Đức Chúa Trời sẽ
không cho phép Satan làm bất cứ điều gì cho tôi tớ của Ngài vượt quá sức chịu đựng
của người: “Đức
Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu” (I Côrinhtô 10:13).
Thứ hai, tuy nhiên, điều nầy gán một trách nhiệm rất lớn trên người tin
Chúa. Người không thể đổ thừa cho Satan về tội lỗi trong đời sống của người. Người
không thể nói: “Ma quỉ khiến tôi làm việc
ấy”. Đức
Chúa Trời đã dẹp bỏ lời cáo lỗi đó. Giống như Giăng phát biểu trong thư tín của
người: “Hỡi
các con cái bé mọn, phần các con, là thuộc về Đức Chúa Trời, đã thắng được họ rồi,
vì Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế gian” (1 Giăng 4:4). Satan nhận được nhiều công trạng vì mọi rối
rắm nơi đời sống của người tin Chúa hơn là hắn đáng được!
Ý chính của Sách Gióp, ấy là dù điều ác và đau khổ dường
như chiếm tay trên, Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi, và Ngài nhớ đến kẻ thuộc về
Ngài. Tình yêu thương của
Ngài không bao giờ dứt, và ân điển của Ngài là đủ cho mọi nhu cần của chúng ta;
các lời hứa của Ngài đều là chơn thật. Chẳng có gì phân rẽ chúng ta ra khỏi
tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Như Phaolô viết:
“Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng
yêu thương mình mà thắng hơn bội phần. Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống,
các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao,
hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương
mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa
chúng ta” (Rôma
8:37-39).
Và như Phierơ lưu ý:
“Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến
sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạm chịu khổ,
chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho” (I Phierơ 5:10).
SAU CÙNG:
Mục đích của sự nghiên cứu Sách Gióp là:
Nhìn thấy Đức Chúa Trời là ai
Nhìn thấy chúng ta là ai
Nhìn thấy mọi nan đề của chúng ta đều được giải quyết
trong Ngài.
Nhìn thấy mọi thắc mắc của chúng ta đều được giải đáp
trong Ngài dầu khi Ngài nín lặng.
Nhìn biết Đức Chúa Trời và nhìn nhận rằng ngay cả khi mọi
sự (và, mọi người) khác qua đi, Ngài
vẫn còn ở đó, và NGÀI LÀ ĐỦ RỒI.
Thắc mắc mà mỗi người tín đồ phải tự hỏi lòng là đây: “Nếu Satan đưa ra lời vu cáo nghịch tôi ở trước mặt Đức Chúa
Trời, liệu Đức Chúa Trời có thể cất bỏ đi sự thách thức không?” Tấm lòng của tôi đặt ở
chỗ nào? Có phải nó được đặt nơi Đức Chúa Trời, hay nơi các ơn phước của Ngài? Chúa
Jêsus đòi hỏi thái độ cam kết khăng khăng từ các môn đồ Ngài:
“Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em,
chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta. Như vậy,
nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta” (Luca 14:26, 33).
Chúng ta có nhiều sự khải thị hơn là Gióp có. Chúng ta có
sự làm chứng của nhiều người trong quá khứ từ Gióp cho đến Chúa Jêsus. Như tác
giả thơ Hêbơrơ nói:
“Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng
tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau
rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự
muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian” (Hêbơrơ 1:1-2).
Và vì vậy,
“Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy
như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương
ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta, nhìn xem Đức
Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin, tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt
trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, và hiện nay ngồi bên
hữu ngai Đức Chúa Trời. Vậy, anh em hãy nghĩ đến Đấng đã chịu sự đối nghịch của
kẻ tội lỗi dường ấy, hầu cho khỏi bị mỏi mệt sờn lòng. Anh em chống trả với tội
ác còn chưa đến nỗi đổ huyết; lại đã quên lời khuyên anh em như khuyên con, rằng:
Hỡi con, chớ dể ngươi sự sửa phạt của Chúa, Và khi Chúa trách, chớ ngã lòng; Vì
Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu, Hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt” (Hêbơrơ 12:1-6).