Từ Sự Sáng Tạo Đến Thập Tự Giá
Tìm Hiểu Các Sách Tiên Tri
Mục
sư Bob Deffinbaugh
Như bạn biết đấy, chúng ta đang ở giữa phần nghiên cứu Cựu
Ước, một loạt bài có đề tựa “Từ Sáng Thế Đến Thập Tự Giá”. Mục đích của loạt bài
nầy là cung ứng cho chúng ta phần tri thức năng động tốt hơn về Kinh Cựu Ước, một
sự hiểu biết tốt hơn về sự mặc khải tiệm tiến của Đức Chúa Trời, và một cái
nhìn tươi mới vào tấn bi kịch cứu chuộc được lồng trong Đức Chúa Jêsus Christ chưa
mở ra.
Hai bài học trước đã bàn về chức vụ của hai tiên tri Êli và
Êlisê, các bài học nầy cung ứng cho chúng ta cái nhìn sâu sắc vào tình trạng đang
xấu đi trong Israel ,
Giuđa, và Vương quốc chia hai. Đi theo gót chơn của Êli và Êlisê, Đức Chúa Trời
đã dấy lên các tiên tri mới để nói thay cho Ngài. Các tiên tri mới nầy tiếp tục
theo truyền thống nói tiên tri của Môise. Họ tiếp tục noi theo tinh thần của Êli.
Tôi gọi các vị tiên tri mới nầy là các sách
tiên tri
để phân biệt họ với các tiền nhân của họ, vì họ có một không hai trong những lời
tiên tri của họ đã được viết ra cho chúng ta. Tất nhiên, tôi đang đề cập tới
các Đại Tiên Tri (Êsai, Giêrêmi,
Êxêchiên, và Đaniên) và các Tiểu Tiên Tri (12 sách sau cùng của Cựu Ước). Thực vậy, rất là hay khi mở bảng mục
lục trong quyển Kinh thánh của bạn ra để nhìn thấy họ được liệt kê ở đó.
Cần phải chỉ ra các tiểu tiên tri đã được gọi như thế là vì các sách nầy đều ngắn; các đại tiên tri đều là những sách dài. Từ ngữ chẳng ám chỉ gì về tầm quan
trọng của chúng. Có lẽ là thích ứng hơn khi đề cập đến chúng là các sách tiên
tri ngắn hơn và sách tiên tri dài hơn.
Hai bài học kết hợp nầy sẽ cung ứng phần giới thiệu đến các sách tiên tri. Thật là phải lẽ khi
dành thì giờ ra một chút đến với “phần giới thiệu” vì một số lý do. Thứ nhứt, có nhiều sách giữa vòng chúng là loại văn chương Cựu Ước
có thể giúp chúng ta tìm hiểu chúng. Chúng có những điểm tương tự không những
trong phong cách văn học, mà trong nội dung đáng được lưu ý. Thứ hai, một nhận định sẽ sửa soạn và khích lệ chúng ta phải nghiên
cứu chúng cho riêng mình, khi chúng ta xử lý với từng sách riêng, nếu không phải
là toàn bộ chúng khi loạt bài của chúng ta cứ liên tục.
Trước tiên, chúng ta hãy nhìn vào Biểu đồ Figure 1, biểu đồ
nầy sẽ giúp chúng ta thấy được thể nào các sách tiên tri thích ứng về mặt niên đại
trong lịch sử của Israel
và Giuđa. Thanh biểu tượng cho quốc gia Israel trở thành vương quốc chia
hai sau sự trị vì của Vua Solomon. Bạn sẽ nhớ Đức Chúa Trời truyền cho Solomon rằng
khi ông qua đời, Vương Quốc sẽ bị chia ra làm hai (I Các Vua 11:9-13), và quả thực y như thế.
Như bạn thấy đấy, các sách tiên tri đến trên bối cảnh
ngay sau Êli và Êlisê rồi tiếp tục ở chỗ chức vụ của họ đã để trống. Chúng ta
thấy ở đây mối quan hệ thích ứng về niên đại của các sách tiên tri, mở rộng thời
kỳ từ Êlisê đến cuối Kinh Cựu Ước.
Các sách tiên tri có thể chia ra làm bốn nhóm:
Các tiên
tri của xứ Israel
– Giôna, Amốt, và Ôsê
Các tiên
tri của xứ Giuđa – Ápđia, Giôên, Êsai,
Michê, Nahum, Sôphôni, và Habacúc
Các tiên
tri trong thời kỳ lưu đày – Giêrêmi, Êxêchiên, và Đaniên
Các tiên
tri thời kỳ hậu lưu đày – Aghê, Xachari, và Malachi
Niên đại của các tiên tri Giôna, Giôên, và Ápđia bị thắc
mắc nhiều hơn các sách tiên tri khác. Chủ đề của ba sách nầy đều nói tới những
sự bàn luận công bình so với các sách khác.
Việc nghiên cứu biểu đồ Figure trên đây có thể cung ứng
cho chúng ta một cảm giác các vị tiên tri liên đới với nhau về mặt niên đại, cái
điều chúng ta chú ý không phải là cách chúng được trình
bày theo trình tự kinh điển. Việc tìm hiểu thứ tự niên đại cùng với các biến cố
trong lịch sử Israel
là quan trọng cho việc hiểu biết lý do tại sao các vị tiên tri nói ra những gì
họ đang nói (những điều hy vọng sẽ tỏ tường
về sau). Nhưng chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét các tác phẩm của những
vị tiên tri nói chung, như chúng ta thấy chúng được trình bày trong Cựu Ước.
Tôi nghĩ hầu hết chúng ta sẽ đồng ý ngay từ đầu rằng các
sách tiên tri nầy có mặt giữa vòng những phần khó nhất của Kinh thánh phải giải
thích hay đọc với sự hiểu biết. Chúng ta không nên bối rối khi nhìn nhận chúng
ta gặp khó khăn khi đọc các sách tiên tri, vì chắc chắn là chúng ta đang ở
trong một đội khi chúng ta nhìn nhận như thế. Khi đề cập tới các sách tiên tri,
Martin Luther từng phát biểu như sau:
“Họ có lối
nói rất hay, thay vì tiến hành một cách có trật tự, giống như người ta ngao du từ việc nầy sang
việc kế tiếp hầu cho bạn không thể nhận ra suốt những gì họ sẽ nói”
Giờ đây, đấy có thể là lời bình mà tôi muốn thốt ra.
Chúng ta hãy nhìn vào một vài lý do cho một số trăn trở
mà chúng ta đang có:
Ý nghĩa của lời tiên tri – Cái khó khăn chính cho hạng độc giả hiện đại về
thuật ngữ trong các sách tiên tri là từ chỗ hiểu chính xác các từ “tiên tri” và “lời tiên tri”. Từ ngữ “tiên tri” đề cập tới một người nói trước (hay công bố), cũng
y như một người nói “đoán trước”. Nhưng chúng ta thường
hạn chế ý nghĩa tiên tri thành đoán trước cuộc tương lai, vì vậy có nhiều Cơ đốc
nhân đề cập tới các tiên tri chỉ là những lời tiên đoán về sự đến lần đầu tiên
của Đấng Christ, hay sự đến lần thứ hai của Ngài, và thời kỳ sau rốt mặc dù lời
tiên đoán về các biến cố vốn xa xôi với thời buổi của họ là mối quan tâm chính
của họ.
Cần phải chỉ ra rằng không tới 2% lời tiên tri trong Cựu Ước
là nói về Đấng Mêsi. Không tới 5% đặc biệt liên quan tới kỷ nguyên Tân Ước. Và
không tới 1% liên quan tới những biến cố hãy còn trong tương lai đối với chúng
ta. Các sách tiên tri quả thực đang loan báo cuộc tương lai. Nhưng thường thì
là cuộc tương lai tức thì của Israel ,
Giuđa, và các nước vây quanh họ mà các tiên tri đã loan báo – chớ không phải tương
lai của chúng ta. Vì lẽ đó, một trong những chìa khóa cho sự hiểu biết các sách
tiên tri là phải công nhận như thế để chúng ta nhìn thấy những lời tiên tri của
họ sẽ ứng nghiệm, chúng ta phải thường xuyên nhìn lại các thời kỳ vẫn còn là cuộc
tương lai đối với họ, song đối với chúng ta thì là quá khứ.
Nhìn xem các tiên tri là những nhà tiên đoán các biến cố tương
lai là bỏ sót chức năng chính của họ, thực ra họ đang nói thay cho Đức Chúa Trời với những
người đồng thời của họ.
Khoảng cách lịch sử – Một vấn nạn khác gây phức tạp sự chúng
ta tìm hiểu các sách tiên tri là vấn đề khoảng cách thuộc lịch sử. Bởi chính bản
chất của sự việc, chúng ta sẽ khó tìm hiểu các lời lẽ của những vị tiên tri hơn
người Do thái, họ đã nghe chính lời lẽ ấy theo cách riêng tư. Chúng ta vốn xa
cách với sinh hoạt tôn giáo, lịch sử, và văn hóa của Israel xưa, và chúng ta gặp rắc rối
khi đặt lời lẽ của các tiên tri vào văn mạch thích hợp của họ. Thường thì khó
cho chúng ta nhìn thấy họ đang đề cập tới điều gì và lý do tại sao. Có nhiều việc
rõ ràng đối với họ lại có xu hướng mập mờ đối với chúng ta.
Bản chất của lời tiên tri khi được thốt ra – Sau cùng, bản chất những lời tiên tri được thốt ra gây ra nhiều trăn trở
cho chúng ta khi tìm hiểu.
Thí dụ, trong hàng trăm tiên tri ở Israel xưa kia
trong thời Cựu Ước, chỉ có 16 người được chọn để nói ra những lời tiên tri được
tuyển chọn và viết ra thành sách. Chúng ta biết rõ các vị tiên tri khác, tỉ như
Êli và Êlisê, đã đóng một vai trò gây nhiều ảnh hưởng trong việc phân phát Lời
của Đức Chúa Trời cho dân sự của Ngài và cho các dân khác nữa. Nhưng chúng ta
biết nhiều về các tiên tri nầy hơn chúng ta biết về lời lẽ cụ
thể của họ. Những gì họ đã làm được mô tả nhiều hơn những
điều họ đã nói – và khi chúng ta được truyền cho biết mọi
điều họ đã nói, lời lẽ ấy lại được đặt rất đặc biệt và rất rõ ràng ở văn mạch
những truyện tích mà chúng được viết ra trong đó. Nói chung, trong những sách của
Cựu Ước, chúng ta nghe nói về các tiên tri và rất ít từ các tiên tri. Tuy nhiên, trong cách sách tiên tri, chúng ta nghe từ các tiên tri và rất ít về bản thân các tiên tri. Những câu chuyện khác biệt đó dành cho phần
lớn những người có vấn đề, họ biết rõ về các sách tiên tri.
Hơn nữa, các sách tiên tri, đặc biệt là những sách dài, là
những tuyển tập về lời lẽ đã được thốt ra, không luôn luôn được trình bày theo
thứ tự thời gian gốc của chúng, thường không có gợi ý chỗ nào lời tiên tri nầy
kết thúc và lời tiên tri khác bắt đầu, và thường không có gợi ý đối với bối cảnh
lịch sử của chúng nữa. Về việc ấy, phần lớn các lời tiên tri đều đã được thốt
ra đều theo thể thơ. Chúng ta sẽ nói nhiều về những lời tiên tri sau, nhưng tôi
nghĩ bạn cũng nắm được yếu điểm rồi.
Giờ đây, nếu đây là những lý do mà chúng ta gặp khó khăn
với sách tiên tri, muốn tìm hiểu thực sự sách tiên tri, chúng ta phải nắm ngay
những điểm sau: (1) chức năng của một tiên tri; (2) phạm trù lịch sử tác phẩm của
họ; và (3) hình thức tác phẩm của họ.
Những đấng trung bảo thực thi giao ước
– Muốn tìm hiểu Đức Chúa Trời phán gì với chúng ta qua các sách được cảm
thúc nầy, chúng ta phải có một sự hiểu biết rõ ràng về vai trò và chức năng của
vị tiên tri trong xứ Israel .
Các tiên tri đã nói thay cho Đức Chúa Trời với dân sự của Ngài. Họ có chức năng
phải kêu gọi Israel quay trở lại với Đức Chúa Trời, ý nói quay lại với sự trung
thành với mối quan hệ giao ước của họ với Đức Chúa Trời; nghĩa là, quay lại với
luật pháp Môise. Kèm theo với mục đích chính nầy, họ đã đối diện với tội lỗi của
Israel
và đòi hỏi sự ăn năn. Nói đơn giản, các tiên tri là “những đấng
trung bảo thực thi giao ước”. Đã có mối quan hệ giao ước giữa Đức Chúa Trời
và dân sự của Ngài. Giao ước nầy chứa không những những luật lệ mà họ cần phải
tuân giữ, mà nó còn mô tả các loại sửa phạt mà Đức Chúa Trời sẽ nhất thiết áp dụng
cho dân sự Ngài nếu họ không tuân giữ Luật pháp, cũng như các phước hạnh Ngài sẽ
ban ra cho họ nếu họ sống trung tín. Cái điều quan trọng, ấy là Đức Chúa Trời
không những ban bố ra luật pháp của Ngài, mà Ngài còn củng cố nó nữa. Thực thi
tích cực là phước hạnh; thực thi tiêu cực là rủa sả. Đây là chỗ mà vị tiên tri
bước vào. Đức Chúa Trời loan báo sự thực thi luật pháp của Ngài (cả tích cực và tiêu cực) qua các vị
tiên tri.
Môise là một tấm gương – Môise là đấng trung bảo
luật pháp của Đức Chúa Trời khi lần đầu tiên ông công bố ra luật pháp ấy, và đấy
là một mô hình (hay khuôn mẫu) dành
cho các vị tiên tri. Họ là những đấng trung bảo của Đức Chúa Trời, hay phát
ngôn viên, cho giao ước. Qua họ, Đức Chúa Trời nhắc cho dân sự trong các thế hệ
sau Môise phải nhớ rằng nếu giao ước được tuân giữ, phước lành sẽ là kết quả, bằng
không, sự sửa phạt sẽ đến.
Phước lành và sự rủa sả – Các loại
phước lành xảy đến vì cớ sự trung tín được tìm thấy ở Lêvi
ký 26:1-13, Phục truyền luật lệ ký 4:32-40, và Phục
truyền luật lệ ký 28:1-14. Nói chung, các phước lành nầy được sắp xếp
như sự sống, sức khỏe, sự thịnh vượng, dư dật trong nông nghiệp, tôn trọng, và
an ninh. Nhưng các phước lành nầy được loan báo với một lời cảnh cáo về những rủa
sả (các sự sửa phạt) nếu Israel không
vâng lời và trung tín với giao ước. Những sự rủa sả được thấy ở Lêvi
ký 26:14-39, Phục truyền luật lệ ký 4:15-28, và Phục truyền luật lệ ký 28:15-32:42. Nói chung, những
điều rủa sả nầy có thể được sắp xếp dưới 10 chữ D: death [sự chết], disease [bịnh tật], drought [hạn hán], dearth [thiếu thốn], danger [nguy hiểm], destruction [hủy diệt], defeat [thất bại], deportation [lưu đày], destitution [khốn khó], và disgrace [nhục nhã].
Chính các phạm trù nầy áp dụng trong những gì Đức Chúa Trời
truyền đạt qua các vị tiên tri. Người ta phải in trong trí rằng các vị tiên tri
không phát minh ra các phước lành và những sự rủa sả mà họ đã loan báo ra. Họ đã
sao chép Lời của Đức Chúa Trời, chớ không phải lời của
họ. Qua họ, Đức Chúa Trời đã công bố dự tính của Đức Chúa Trời phải thực thi
giao ước và luôn luôn phù hợp với các phạm trù nói tới phước lành và rủa sả đã
có rồi trong luật pháp. Nếu chúng ta thấy bối rối khi học các chương nầy từ
sách Ngũ Kinh, chúng ta sẽ được ban thưởng với một sự hiểu biết tốt hơn về lý
do tại sao các vị tiên tri thốt ra những việc mà họ đã thốt ra.
Khi Đức Chúa Trời muốn công bố phước lành cho dân tộc qua
tiên tri Amốt, Ngài làm thế trong những từ ngữ bóng bẩy nói tới sự dư dật trong
nông nghiệp, sự sống, sức khỏe, sự thịnh vượng, tôn trọng, và an ninh (xem Amốt 9:11-15). Khi
Ngài công bố số phận cho dân tộc bất tuân trong thời của Ôsê, Ngài làm thế phù
hợp với một hay nhiều chữ D. Thí dụ: sự hủy diệt [destruction] ở Ôsê 8:14
hay lưu đày ở Ôsê 9:3. Những sự rủa sả nầy thường có nghĩa
bóng, mặc dù chúng nhất định có thể theo nghĩa đen. Chúng luôn luôn là tập thể, đề cập tới dân tộc như một tổng thể. Các phước
lành hay rủa sả không bảo đảm sự thịnh vượng hay thiếu thốn cho bất kỳ cá nhân đặc biệt nào.
Nói theo cách thống kê, một đại đa số các tiên tri công bố
sự rủa sả vì trong thời kỳ họ nói tiên tri (khoảng
800 - 587 TC), dân Israel
(bắc và nam) đang hướng tới sự sửa phạt.
Sau sự hủy diệt của cả hai vương quốc, nghĩa là, sau năm 586 TC, các tiên tri được
cảm động thường nói nhiều về các phước lành hơn là rủa sả vì sự sửa phạt dân tộc
đã hoàn tất rồi, Đức Chúa Trời tiếp tục chương trình cơ bản của Ngài, chương
trình nầy tỏ ra sự thương xót. Phục truyền luật lệ ký
4:25-31 cung ứng phần mô tả hệ quả nầy:
25Khi
các ngươi sẽ có con cùng cháu, và khi đã ở lâu trong xứ rồi, nếu các ngươi làm
bại hoại mình, làm tượng chạm nào, hình của vật chi mặc dầu, mà hành ác trước mặt
Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi để chọc Ngài nổi giận, 26thì ngày
nay ta bắt trời và đất làm chứng quyết cho các ngươi rằng các ngươi sẽ chết vội,
và khuất mắt khỏi xứ mà mình sẽ đi nhận lấy tại bên kia sông Giô-đanh. Các ngươi
chẳng ở đó lâu dài đâu, nhưng sẽ bị tận diệt. 27Đức Giê-hô-va sẽ tản
lạc các ngươi trong các nước, chỉ còn lại số nhỏ trong các nước mà Đức
Giê-hô-va sẽ dẫn các ngươi vào; 28ở đó các ngươi sẽ cúng thờ những
thần bằng cây và bằng đá, là công việc của tay loài người làm nên, chẳng thấy,
chẳng nghe, chẳng ăn, cũng chẳng ngửi. 29Ở đó ngươi sẽ tìm cầu
Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp.
30Khi ngươi bị gian nan, và các việc nầy xảy đến cho ngươi, bấy giờ
trong ngày cuối cùng, ngươi sẽ trở về cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và vâng
theo tiếng Ngài. 31Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi là Đức Chúa Trời
hay thương xót sẽ không bỏ ngươi và không hủy diệt ngươi đâu; cũng chẳng quên sự
giao ước mà Ngài đã thề cùng các tổ phụ ngươi.
Khi bạn đọc sách tiên tri, hãy nhìn thấy khuôn mẫu đơn giản
nầy: một là (1) nhận dạng tội lỗi của Israel được nối theo sau là lời công bố về
sự rủa sả, hoặc (2) lời công bố sự thành tín và tình yêu
thương của Đức Chúa Trời dành cho dân sự Ngài được nối theo sau bằng lời công bố
về phước lành, nương vào hoàn cảnh. Phần lớn thời gian, đấy là nhưng điều mà
các vị tiên tri đã cưu mang.
Các sách tiên tri đòi hỏi thời gian và sự nghiên cứu. Người
ta thường tiếp cận các sách nầy theo cách tình cờ, giống như thể đọc qua loa
qua các sách tiên tri sẽ kiếm được một cấp độ hiểu biết cao. Điều nầy không được
làm với các quyển sổ tay giống như khi đi học bình thường, và như thế sẽ chẳng
thực sự tác động với sách tiên tri đâu. Một cách đặc biệt cho sự tìm hiểu và giải
thích sách tiên tri, một người phải bằng lòng tham khảo nhiều tư liệu bên ngoài,
tỉ như tự điển và sách chú giải Kinh thánh, để có thể được soi sáng về mặt
thông tin hầu cho chúng ta có thể nắm bắt được mục đích mà một vị tiên tri đang
chuyển tải. Lời của Đức Chúa Trời đến qua các tiên tri đến với dân sự trong các
hoàn cảnh đặc biệt. Giá trị của nó một phần nương vào khả năng nắm bắt các tình
huống đó nơi chúng ta, đổi lại chúng ta có thể áp dụng chúng cho chính bản thân
mình.
Phạm trù về mặt lịch sử – Thật là thú vị khi thấy rằng 16 sách tiên tri
trong Cựu Ước đến từ một khung hẹp toàn bộ bức tranh lịch sử của Israel . Tại sao
lại có một bản văn của lời tiên tri trong thời kỳ giữa Amốt và Malachi? Sở dĩ
như thế là vì thời kỳ nầy lịch sử của Israel đặc biệt cần đến sự suy gẫm thực thi giao ước, đây là phần việc của
các tiên tri. Kèm theo đó là ao ước hiển nhiên của Đức Chúa Trời phải ghi chép
lại phần lịch sử tới sau những lời cảnh cáo và phước lành mà các vị tiên tri đó
đã công bố thay mặt cho Ngài trong những năm tháng quan trọng đó.
Các năm ấy được đánh dấu bằng ba việc: (1) biến động về
chính trị, quân sự, kinh tế, và xã hội; (2) một cấp độ lớn bất trung trong tôn
giáo và bất chấp giao ước nguyên thủy của Môise; và (3) thay đổi đáng kể dân số
và biên giới quốc gia. Trong các trường hợp nầy, Lời của Đức Chúa Trời được cần
đến. Đức Chúa Trời dấy lên các vị tiên tri và công bố Lời của Ngài sao cho
thích đáng.
Các sách I và II Các Vua và II Sử ký cung ứng văn mạch
theo Kinh thánh trong sách các tiên tri dẫn tới cuộc lưu đàng sang Babylôn. Ở đó,
chúng ta thấy tùy theo thời gian sách tiên tri xuất hiện trên bối cảnh, Israel là một
dân thường trực bị phân tán bởi cuộc nội chiến lâu dài. Sự bất tuân của vương quốc
phía bắc đối với giao ước đã vượt xa mọi sự được biết đến trong xứ Giuđa, và Israel
bị dự trù phải hủy diệt bởi Đức Chúa Trời vì cớ tội lỗi của nó. Amốt, bắt đầu
khoảng năm 760, và Ôsê, khởi sự khoảng năm 755, công bố sự hủy diệt sắp xảy ra.
Đức Chúa Trời đã dấy lên người Asiri như một siêu quyền lực mới lúc bấy giờ và
là công cụ phán xét nhắm vào Israel .
Vào năm 722TC, Asiri chiếm lấy thủ phủ của Samaria
rồi nhơn đó chinh phục xứ Israel .
Dân sự của xứ Giuđa đã chứng kiến sự hủy diệt của vương
quốc phía bắc, như Êsai và Michê đã nói, họ cảnh báo rằng dân xứ Giuđa sẽ không
được miễn trừ cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời và thực vậy, họ cũng đang đi trên
chính con đường hủy diệt. Sau đó, tình trạng tội lỗi đáng than khóc của xứ Giuđa
và sự dấy lên của siêu quyền lực khác, Babylôn, đã trở thành đề tài của các vị
tiên tri Nahum, Habacúc, và Sôphôni, cũng như Giêrêmi và Êxêchiên. Giuđa, cũng
bị hủy diệt vì sự bất tuân của nó và bị lưu đày. Có lẽ đây là chỗ một trường hợp
về tầm quan trọng của bối cảnh lịch sử có thể được minh họa tốt nhất.
Người Babylôn dấy lên và đã đánh bại người Asiri (612TC), và kế đó đánh bại người Aicập tại
trận đánh Carchemish vào năm 605TC để trở thành quyền lực số 1 trong thế giới văn
minh. Theo sau sự bại trận của người Aicập, Nêbucátnếtsa hướng về phía Nam vào trong xứ Giuđa rồi vào trong thành Jerusalem như một nhà
chinh phạt. Khi ấy mới bắt đầu cuộc lưu đày. Tuy nhiên, khi chúng ta suy nghĩ đến
cuộc phu tù, chúng ta cần phải biết rằng thực sự đã có ba lần lưu đày. Lần thứ nhứt đã xảy ra vào năm 605TC khi Đaniên bị
bắt dẫn sang Babylôn. Lần lưu đày thứ nhì đã xảy ra vào năm 597TC khi Nêbucátnếtsa
trở lại để quét sạch phong trào chống đối; đây là lúc Êxêchiên bị bắt dẫn tù
sang Babylôn (trong mọi cuộc lưu đày nầy,
Giêrêmi còn ở lại thành Jerusalem ).
Lần lưu đày sau cùng đã xảy ra vào năm 586TC khi thành Jerusalem sau cùng bị Nêbucátnếtsa hủy diệt.
Thí dụ, giờ đây hãy lấy tác phẩm của của Giêrêmi và Êxêchiên:
Cả hai đã nói tiên tri trước và sau sự hủy diệt thành Jerusalem vào năm 586TC. Sách Giêrêmi được viết
ra trước sự hủy diệt. Giêrêmi, một chứng nhân của sự hủy diệt, đã viết sách Ca
thương sau đó. Lời tiên tri của Êxêchiên ở các chương 1-32 đã được đưa ra ở Babylôn
trước sự sụp đổ của thành Jerusalem .
Các chương 33-48 là những lời tiên tri được đưa ra sau đó. Mục tiêu chức vụ của
vị tiên tri thay đổi với sự tôn trọng đối với biến cố đó. Trước sự hủy diệt
thành Jerusalem ,
họ đã nói chủ yếu về sự phán xét. Sau sự hủy diệt, họ bắt đầu nói nhiều về sự
phục hưng. Nếu bạn biết rõ bối cảnh lịch sử, thì hiểu rõ lý do tại sao họ đã thốt
ra những gì họ đã nói là dễ dàng hơn.
Sau cuộc lưu đày, khi dân sự được phép trở về lại thành Jerusalem,
Aghê, Xachari, và Malachi đã công bố ý chỉ của Đức Chúa Trời trong việc tái thiết
đền thờ, tái thiết lại xứ sở, và sự lập lại tình trạng chính thống.
Trừ phi chúng ta nhìn biết các biến cố nầy và quá nhiều
các biến cố khác trong kỷ nguyên nầy được nhắc tới ở đây, có lẽ chúng ta sẽ
không có khả năng dõi theo hết được mọi điều các tiên tri đã nói. Từng sách
tiên tri được phát ra trong một bối cảnh lịch sử thật đặc biệt. Đức Chúa Trời đã
phán qua các tiên tri Ngài cho dân sự theo thời gian, địa điểm và trong những
hoàn cảnh nhất định. Một sự hiểu biết về niên đại, khán thính giả, và hoàn cảnh,
vì lẽ đó, khi chúng đã được biết đến, đóng góp một phần lớn cho khả năng hiểu
biết lời tiên tri của độc giả.
A. Họ đ nĩi ra lời tin tri – Khi chúng ta đến với phần nghiên cứu các sách
tiên tri, việc đầu tiên chúng ta phải tiếp thu là suy nghĩ đến
những lời tiên tri (y như chúng ta phải học
suy nghĩ các phân đoạn trong thư tín hay những mẫu chuyện kể trong Kinh thánh).
Đây chẳng phải là phần việc dễ dàng đâu, nhưng nhìn biết chỗ khó và nhu cần phải
suy nghĩ là phần khởi đầu của sự khai phát đầy thú vị. Phần lớn các sách tiên
tri dài hơn đều là các tuyển tập những lời tiên tri đã được thốt ra, không luôn luôn được
trình bày theo thứ tự thời gian gốc của chúng, thường thì chẳng có dấu hiệu nào
cho thấy chỗ lời tiên tri nầy kết thúc và lời tiên tri khác khởi sự, và thường
chẳng có gợi ý đến bối cảnh lịch sử của chúng nữa. Phần lớn các lời tiên tri đều
đã được ghi lại theo thể thơ văn.
Phần lớn thời gian, những điều các tiên tri đã nói được
trình bày trong sách của họ theo kiểu nói liên tục. Nghĩa là, lời lẽ họ thốt ra
vào các thời điểm và địa điểm khác nhau trải qua các năm tháng chức vụ của họ đã
được tuyển chọn và viết ra cùng với nhau, không có phân biệt để chỉ ra chỗ lời
tiên tri nầy kết thúc và lời tiên tri kia bắt đầu. Hơn nữa, dù ai đó giả định bởi
sự thay đổi đề tài thì một lời tiên tri mới có lẽ đã bắt đầu, thiếu phần lý giải
vẫn khiến cho một người phải thắc mắc: “Có phải vấn
đề nầy đã được nói ra cùng ngày với cùng khán thính giả, hay điều nầy đã được
nói ra nhiều năm về sau – hoặc trước đó – với một nhóm khác dưới các hoàn cảnh
khác?” Câu
trả lời có thể tạo ra một sự khác biệt lớn cũng như đối với sự hiểu biết của một
người.
Một số chi tiết trong các sách tiên tri cung ứng nhiều
ngoại lệ. Thí dụ, trong sách Aghê, và các chương đầu tiên của sách Xachari, từng
lời tiên tri đã được xác định. Với sự trợ giúp của một quyển tự điển Kinh thánh,
hay sách chú giải, chúng ta có thể lần theo diễn tiến của các lời tiên tri ấy
theo văn mạch lịch sử của chúng một cách dễ dàng. Và một số lời tiên tri trong
các sách khác, như sách Giêrêmi và sách Êxêchiên, tương tự được xác định và được
đặt trong một bối cảnh bởi chính tác giả. Nhưng nó chẳng có hiệu quả theo phần
lớn thời gian. Một quyển chú giải hay tự điển Kinh thánh tốt thường có ích
trong sự giải thích những sự việc thể ấy cho chúng ta khi chúng ta đọc.
Hình thái văn học của những lời tiên tri – Một khi sự cách ly của
từng lời tiên tri là chìa khóa cho sự hiểu biết các sách tiên tri, thật là quan
trọng khi nhìn biết một việc gì đó về các thể thức khác nhau mà những vị tiên
tri xử dụng để sáng tác lời tiên tri của họ. Giống như Kinh thánh là một tổng
thể được sáng tác bởi nhiều loại văn học và hình thái văn chương khác nhau, cũng
một thể ấy các vị tiên tri đã sử dụng một hình thái văn chương đa dạng trong
các sứ điệp đã được thần linh cảm thúc. Những sách chú giải có thể nhận dạng và
giải thích các hình thái nầy. Có lẽ ba hình thái phổ thông nhất là lời tiên tri cáo kiện, lời tiên
tri khốn cho, và lời tiên tri hứa hẹn. Mỗi thể loại ấy đều có
những đặc điểm văn học khác nhau. Tìm hiểu các đặc điểm của văn học có tính
cách tiên tri nầy giúp cho một người nắm bắt được sứ điệp của Đức Chúa Trời một
cách chính xác hơn. Tôi muốn tận dụng thời gian để nhìn vào các trường hợp chỉ
cho bạn thấy những điều tôi muốn nói.
Lời
tiên tri cáo kiện – Chúng ta hãy mở ra ở Êsai 3:13-26, ở đây
thiết lập một hình thái văn học theo nghĩa bóng được gọi là “cáo kiện theo giao ước”. Trong phân đoạn nầy và các phần bóng bẩy
cáo kiện khác trong sách tiên tri (thí dụ:
Ôsê
3:3-17, 4:1-19, v.v…), Đức Chúa Trời được phác họa theo cách tưởng
tượng như công tố viên, và là quan tòa trong một vụ án nghịch cùng bị cáo, là Israel . Hình
thái cáo kiện đầy đủ chứa phần triệu tập, tang vật, chứng cớ, và bản án, mặc dù
các yếu tố nầy đôi khi ngụ ý hơn là rõ ràng. Ở Êsai 3, các yếu tố được kết
hợp như sau: Tòa án triệu tập, và sự cáo kiện được bày ra nghịch cùng Israel (các câu 13-14a). Bản cáo trạng hoặc lời
buộc tội được trình ra (các câu 14b-16).
Một khi bằng chứng cho thấy rằng Israel hiển nhiên phạm tội, án quyết
được công bố (các câu 17-26). Vì giao
ước đã bị vi phạm, các loại án phạt được liệt kê trong giao ước sẽ đến trên dân
Israel :
bịnh tật, thiếu thốn, khốn khổ và chết chóc. Cách nói bóng của ngụ ý nầy là
cách truyền đạt hiệu quả cho Israel
biết rằng họ sẽ bị sửa phạt vì cớ họ bất tuân, và án phạt sẽ rất là nghiêm khắc.
Hình thái văn học đặc biệt giúp tiếp thu lấy sứ điệp đặc biệt.
Lời
tiên tri khốn cho – Qua các tiên tri, Đức Chúa Trời đưa ra những lời tiên đoán về số
phận sắp xảy đến khi sử dụng hình ảnh “khốn cho”, và không một người Israel
nào có thể bỏ qua tầm quan trọng của việc sử dụng từ ngữ ấy. Lời tiên tri khốn
cho chứa [một là rõ ràng hay ngấm ngầm]
ba yếu tố đánh dấu hình thái nầy rất đặc biệt: một lời công bố về sự đau khổ (thí dụ, từ ngữ “khốn cho”), lý do cho nổi khổ, và
lời tiên đoán về số phận. Hãy đọc Habacúc 2:6-8 như một
trường hợp của lời tiên tri khốn cho được thốt ra nghịch cùng Babylôn. Lời tiên
tri công bố “không có” ở câu 6. Lý do cũng được
cung ứng ở câu 6, ở đây Babylôn được nhân cách hóa như một tên cướp và tham nhũng.
Tai vạ được nói trước ở các câu 7-8, khi toàn bộ những người bị Babylôn áp bức
một ngày kia sẽ dấy lên chống nghịch nó. Hình thái nầy là ngụ ý, mặc dù không
nói hết những điều khốn cho; đối chiếu Michê 2:1-5; Sôphôni
2:5-7.
Lời tiên tri hứa hẹn (hay sự cứu rỗi) – Hình thái văn học phổ
thông khác của lời tiên tri là lời hứa hay lời tiên tri nói tới “sự cứu rỗi”. Bạn sẽ nhận ra hình thái nầy bất cứ khi nào bạn
nhìn thấy các yếu tố nầy: tham khảo đến tương lai, nhắc tới sự thay đổi triệt để,
và nhắc tới ơn phước. Amốt 9:11-15, một lời tiên tri mẫu về sự hứa hẹn,
chứa các yếu tố nầy. Tương lai được nhắc tới như “trong ngày
ấy”
(câu 11). Sự thay đổi triệt để được
mô tả là cơn phấn hưng và tu bổ “nhà tạm của David” (câu
11), sự Israel
được tôn cao hơn Êđôm (câu 12), và sự
trở về từ cuộc lưu đày (các câu 14, 15).
Ơn phước đến trong phạm trù của giao ước đã được nhắc tới rồi (thí dụ, sự sống, sức khỏe, sự thịnh vượng,
dư dật về nông nghiệp, tôn trọng, và an ninh). Mọi khoản nầy được gộp lại
trong Amốt
9:11-15, mặc dù sức khỏe được ngụ ý thay vì rõ nét. Phần nhấn mạnh
chính ở đây là sự dư dật về nông nghiệp. Thí dụ, mùa màng sẽ trúng nhiều đến nỗi
con gặt sẽ không gặt xong đúng kỳ khi người gieo đã khởi sự gieo lại (câu 13). Trong các trường hợp khác về lời
tiên tri hứa hẹn, hãy xem Ôsê 2:16-20 và 2:21-23, Êsai
45:1-7, và cũng xem Giêrêmi 31:1-9.
B. Họ là những thi sĩ – Đức Chúa Trời đã phán
qua các tiên tri Ngài theo thể thơ. Dân chúng thường dùng thơ văn, và họ có thể
nhớ loại thơ văn nầy nhiều hơn loại văn xuôi. Các tiên tri thường sử dụng loại
thơ được gọi là “thơ văn xuôi”, một kiểu thức đặc biệt
vận dụng chính các đặc điểm như thơ văn, dù không thích hợp bằng. Vì thể thơ nầy
thông dụng và kiểu cách hơn văn xuôi, nó cũng được ghi nhớ dễ dàng hơn.
Tất cả các sách tiên tri chứa một lượng thơ văn rất đáng
kể, một vài sách thì rặc theo thi ca. Thực như thế, thi ca là đặc điểm văn chương
phổ thông nhất và bao gồm 1/3 Kinh thánh. Vì vậy, chúng ta phải có một sự hiểu
biết thi ca theo Kinh thánh để tìm hiểu Kinh thánh sao cho tốt hơn. Ngôn ngữ của
thi ca đều là tượng hình. Nó được thiết kế để
khuấy đảo cảm xúc và tạo hình trong lý trí, không phải để bồi dưỡng cho trí tuệ.
Kết quả, thi ca sử dụng các thứ công cụ tỉ như so sánh, ẩn dụ, nhân cách hóa,
và cường điệu để tạo hình gợi lên kinh nghiệm cảm giác trong trí tưởng tượng của
chúng ta. Vì vậy rất là quan trọng khi chúng ta có thể nhận dạng và giải thích
các loại công cụ của ngôn ngữ thi ca. Thi ca phải được đọc, hiểu, và giải thích
như thi ca.
Sau cùng, cấu trúc của thi ca là song đối. Song đối là hình thức câu thơ trong đó thi ca được viết ra trong
Kinh thánh. Hy vọng là bạn đang có một số tri thức về thi ca song đối trong
Kinh thánh, nhưng tôi chỉ đụng đến nó một phần nào thôi một khi nó rất phổ biến
trong sách tiên tri. Khi chúng ta nói tới song đối, chúng ta đang đề cập tới kỷ
thuật Hybálai trình bày một tư tưởng theo kiểu song đối trong văn học. Đây là
hiện tượng bởi đó hai hay nhiều dòng thơ liên tục làm cho vững chắc, củng cố và
phát triển lẫn nhau. Kiểu cách phổ thông nhất về thể song đối là song đối đồng nghĩa, trái ngược, và tổng hợp như được minh họa sau đây:
Song đối đồng nghĩa là chỗ mà dòng sau hay dòng thứ nhì nhắc lại ý
nghĩa của dòng thứ nhứt, như trong Êsai 44:22:
“Ta đã xóa sự phạm tội ngươi như mây đậm,
và tội lỗi ngươi như đám mây” hay,
“Ta sẽ đổi ngày lễ các ngươi ra sầu thảm,
và hết thảy bài ca tụng các ngươi ra ca thương” (Amốt 8:10a).
Mặt khác, song
đối trái ngược, là chỗ dòng sau hay dòng thứ hai đi ngược lại với tư tưởng của
dòng thứ nhứt, như trong Ôsê 7:14:
“Chúng nó chẳng lấy lòng kêu cầu ta, song
chúng nó kêu van trên giường mình”
Song đối tổng hợp, có lẽ là khó phân biệt
hơn một chút, là chỗ dòng sau hay dòng thứ hai cộng với dòng thứ nhứt với bất kỳ
tư thế nào cung ứng thêm phần thông tin, như trong Ápđia 21:
“Sẽ có các kẻ giải cứu lên trên núi Si-ôn đặng
phán xét núi Ê-sau; còn nước thì sẽ thuộc về Đức Giê-hô-va”
Cần phải chú ý rằng những phần bàn bạc về văn học
khác rộng hơn và phức tạp hơn về sự song đối được thấy có trong thi ca của Kinh
thánh. Làm quen với cấu trúc thơ văn nầy nhất định là có hiệu quả hơn. Như với
hình thái tiên tri, một sự quen thuộc tổng quát với thể song đối Hybálai sẽ được
ban thưởng khi chúng ta đọc sách tiên tri. Phần trình bày ý tưởng trong các
hình thái thơ văn như thế nầy không nhất thiết rơi vào chỗ lộn xộn được, bao
lâu chúng ta đọc cách cẩn thận và nhận ra các đặc điểm có một không hai. Thi ca
đúng là dễ hiểu hơn văn xuôi nếu chúng ta biết rõ các điều luật.
Có đặc điểm khác trong các sách tiên tri mà tôi thấy rất
hấp dẫn. Đặc điểm nầy chủ yếu được thấy trong các phần lược truyện, ở đó kể lại
cho chúng ta biết đôi điều về các vị tiên tri. Phần nhiều các vị tiên tri trong
Cựu Ước đã trở thành cái được gọi là “sư phạm trong lai lịch”. Điều nầy có ý nói rằng
mọi điều họ đã làm trở thành kinh nghiệm giáo huấn cho người xem.
Thường thì các tiên tri của Đức Chúa Trời phải chịu đựng
sự khó nhọc bất thường hầu cho đời sống và kinh nghiệm của họ sẽ trở thành một
công cụ giáo huấn cho những người ở chung quanh. Thật là thú vị khi tìm kiếm
các “sư phạm trong lai lịch” nầy trong các phần lược
truyện của các sách tiên tri. Bạn sẽ thấy các vị tiên tri có những ngày nhọc nhằn
phải sống qua và một kinh nghiệm khốn khó phải chịu đựng khi bản thân họ biến
thành phần trực quan cho các lời tiên tri mà Đức Chúa Trời muốn phát ra cho dân
sự.
Các trường hợp về “sự phạm trong lai lịch” trong đời sống
của Êxêchiên – Một trường hợp nổi bật được thấy ở Êxêchiên 4:1-13. Ông
được căn dặn phải lấy một tấm ngói, đặt nó xuống đất, rồi vẽ thành Jerusalem trên đó. Sau
khi biến miếng ngói ấy thành ra “Jerusalem”, ông phải đắp lũy , dựng
đồn, đóng quân vây bọc lấy khắp tư bề. Lý do cho điều nầy được cung ứng ở câu
3. Đây là một điềm cho nhà Giuđa. Điều nầy báo trước cuộc xâm lược lần sau cùng
của Nêbucátnếtsa vào năm 588, kéo dài cho đến năm 586 khi thành phố bị chiếm lấy.
Lời tiên tri của Êxêchiên diễn ra giữa năm 592 và 589TC.
Thêm nữa, Êxêchiên được truyền cho phải năm nghiêng bên tả
trong 390 ngày (hiển nhiên là bên cạnh mô
hình nhỏ của ông chỉ về thành phố đang bị bao vây) mang lấy sự gian ác của
nhà Israel, và khi mọi sự ấy đã hoàn tất, ông phải nằm nghiêng qua bên hữu và
mang lấy sự gian ác của nhà Giuđa trong 40 ngày. Để có đồ ăn, ông phải ăn thức ăn duy nhứt của nhà nông được
nấu bằng phân bò. Mọi sự nầy làm biểu tượng cho sự ô uế mà Israel và Giuđa
đã tự làm vấy bẩn mình.
Một trường hợp thứ hai được thấy ở chương 12:3-7. Đức
Chúa Trời truyền cho Êxêchiên phải xoi một cái lỗ trên tường, rồi từ lỗ đó đem đồ
vật ra, vác nó lên vai mình giữa ban ngày, rồi đi ra qua bức tường lúc trời tối
giống như bị đày rời khỏi thành phố vậy. Chắc chắn là ông làm theo lời dặn dò nầy
nhiều lần đến nỗi dân sự hỏi ông đang làm cái gì vậy? Ông chỉ đáp: “Ta là một dấu cho các ngươi. Như ta đã làm, cũng một thể ấy
sẽ xảy ra cho các ngươi (tại thành Jerusalem ).
Họ sẽ bị lưu đày, đi làm phu tù”.
Các trường hợp khác về “sư phạm trong lai lịch”:
Ôsê là một trường hợp khác nói tới “sư phạm
trong lai lịch” (Ôsê 1:2-9). Đức
Chúa Trời truyền cho Ôsê phải kinh nghiệm tình trạng nát lòng về người vợ không
chung thủy như hình ảnh có hai phần: nói tới tình trạng bất trung của Israel đối với
Ngài và một sự sửa soạn cho Ôsê nắm lấy chức vụ tiên tri của ông.
Êsai phải đi trần và chân không làm một dấu cho Đức
Giêhôva: “Như
đầy tớ ta là Ê-sai đã đi trần và chân không trong ba năm, làm dấu và điềm chỉ về
Ê-díp-tô và Ê-thi-ô-bi thể nào, thì những phu tù của Ê-díp-tô và lưu tù của
Ê-thi-ô-bi, cả trẻ lẫn già, cũng bị vua A-si-ri giải đi trần và chân không, bày
mông ra thể ấy” (Êsai 20:2-4).
Giêrêmi trở thành người dự phần
trong kỷ thuật “sư phạm trong lai lịch” khi Đức Chúa Trời truyền
cho ông phải mang cái ách và xiềng trên cổ và rồi đi vòng quanh với nó (Giêrêmi 27:2-3).
Điều nầy làm minh họa cho lời tiên tri của Đức Chúa Trời rằng Giuđa không bao
lâu nữa sẽ ở dưới cái ách của Babylôn. Và một khi đây là sự phán xét của Đức
Chúa Trời, Giêrêmi đã bảo họ phải thần phục Babylôn thay vì kháng cự. Dân sự
thù ghét Giêrêmi, không những vì sứ điệp nầy nói tới sự phán xét hầu đến, mà
còn vì ông kêu gọi phải thuận phục và đầu hàng. Ông bị kết là kẻ phản bội.
Chúng ta đã nắm được một số đặc điểm của các sách tiên tri, hy vọng sẽ khích lệ chúng ta sử dụng nhiều thì
giờ để đọc chúng. Tóm lại, chúng ta hãy nhớ rằng để hiểu biết các sách tiên tri,
chúng ta phải hiểu rõ chức năng của tiên tri (chức năng không những nói tới cuộc tương lai), phạm trù lịch sử (không những là tổng quát, mà đặc biệt còn đề
cập tới từng vị tiên tri và từng lời tiên tri nữa). Chúng ta cũng phải hiểu
rõ những lời lẽ theo nghĩa đen được sử dụng trong sách tiên tri (hình thái thi ca và lời tiên tri). Và
chúng ta phải bằng lòng dành cho chút thì giờ mà cầu nguyện nữa. Chúng ta phải
nhớ rằng các vị tiên tri chủ yếu là các đấng trung bảo thực hành giao ước. Họ đã nói thay cho Đức Chúa Trời với
dân sự của Ngài. Họ đối mặt với tội lỗi của Israel rồi kêu gọi họ quay trở lại
với luật pháp. Họ kêu gọi Isarel quay trở lại với mối quan hệ giáo ước với Đức
Chúa Trời.
Có nhiều điều nữa có thể nói về các sách tiên tri. Tôi chỉ
lướt trên bề mặt và nói tới một số đặc điểm mà các sách ấy có trong chỗ chung
chung. Từng sách ấy đều có các đặc điểm riêng biệt, cấu trúc riêng biệt, và sự đóng
góp riêng biệt cho Cựu Ước, xứng đáng cho chúng ta học hỏi.
Phần việc của sự giải thích là đặt các sách tiên tri vào
trong phạm trù lịch sử của chính chúng và để lắng nghe những gì Đức Chúa Trời
phán dạy với Israel
qua chúng. Chúng ta từng nghe những điều Đức Chúa Trời đã phán với họ, dầu hoàn
cảnh của chúng ta có khác, chúng ta sẽ thường nghe sự dạy dỗ ấy thêm nữa trong
bối cảnh của chính chúng ta theo một phương thức khác, sự dạy ấy đem chúng ta đến
với lãnh vực ứng dụng. Khi suy nghĩ về sự ứng dụng các sách tiên tri cho chúng
ta ngày nay, chúng ta có thể đưa ra một số lưu ý sau:
(1) Xã hội bất kỉnh trong Israel và
Giuđa vào thời các tiên tri chắc chắn tương tự với xã hội bất kỉnh trong thời của
chúng ta; nghĩa là, chúng ta nhìn thấy sự bê tha, chủ nghĩa vật chất, tình dục
bừa bãi và trụy lạc, đa nghuyên, chủ nghĩa nhân văn, sự bất kỉnh tràn lan, v.v….
Bản thân nó há không chỉ ra rằng có một sứ điệp trong sách tiên tri cho chúng
ta ngày nay sao?
(2) Há chẳng nói được rằng
tội lỗi của Israel
cũng là tội lỗi trong Tân Ước chăng? Rốt lại, họ vi phạm hai điều răn lớn mà cả Cựu
và Tân Ước đều nói tới (Mathiơ
22:36-40).
(3) Chúng ta nhìn thấy
qua sách tiên tri Đức Chúa Trời rất nghiêm chỉnh về giao ước của Ngài với Israel . Điều nầy há không chỉ
ra Ngài cũng rất nghiêm chỉnh về Giao Ước Mới của Ngài qua Đức Chúa Jêsus
Christ sao? Há điều nầy không chỉ ra rằng có một sứ điệp trong sách tiên tri
cho hội thánh ngày nay sao?
Chắc chắn là có nhiều phần ứng dụng khác nhau cho hôm
nay, chúng sẽ được rút ra từ các sách tiên tri, nhưng tôi muốn lùi lại rồi nhìn
vào phạm vi ứng dụng từ các sách tiên tri được xem như một tổng thể. Có một lẽ đạo
bao quát trong sách các tiên tri góp phần như sức thúc đẩy chính của ứng dụng.
Để hiểu rõ điều tôi muốn nói, cho phép tôi đưa ra đôi ba
câu hỏi: “Đâu là mục tiêu của chức vụ tiên tri?” Hay, có lẽ thích đáng hơn:
“Các vị tiên tri tìm kiếm điều gì trong chức vụ
của họ?”
Bạn sẽ nói phục hồi, nghĩa là, một mối quan hệ giao ước được
phục hồi lại với Đức Chúa Trời. Phải, hiểu như thế là mục tiêu tối hậu thì rất
thích đáng. Nhưng các vị tiên tri tìm kiếm điều chi [cụ thể đi]? Các vị tiên tri đã tìm kiếm sự ăn năn. Phục hồi là mục tiêu, còn ăn năn là những gì họ hy vọng nhìn thấy
từ dân sự. Thực vậy, sứ điệp nầy của sách tiên tri vốn thịnh hành đến nỗi Xachari
(một trong các tiên tri cuối cùng) đã
có thể tóm tắt trong một câu nói so với các vị tiên tri đi trước ông: “các tiên tri xưa kia đã kêu họ mà rằng: Đức
Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Bây giờ khá xây bỏ đường dữ và việc làm dữ của
các ngươi” (Xachari
1:4). Sứ điệp của các tiên tri là lời kêu gọi phải ăn năn.
Có một chỗ cho lời kêu gọi phải ăn năn ngày nay không? Có
một nhu cần phải có sứ điệp nói tới ăn năn hôm nay không? Israel , dân sự
của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước, đã xây khỏi Đức Chúa Trời và cần đến sứ điệp ăn
năn. Liệu chúng ta. Là những Cơ đốc nhân đang sống y như xã hội ngoại giáo ở
chung quanh chúng ta đến nỗi khó phân biệt, đang tìm kiếm và cần tới cùng một sứ
điệp?
Walt Kaiser, một trong những tác giả mà tôi rất ưa thích
khi nghiên cứu Cựu Ước, đã phê bình về phần ứng dụng từ sách tiên tri như sau:
“Rao giảng từ các sách tiên tri có thể có một
phần ứng dụng rất lớn nếu chúng ta công nhận sự ăn năn là điều kiện để kinh
nghiệm sự ưu ái của Đức Chúa Trời”.
Chúng ta rất giống với Israel , họ xưng nhận sự ưu ái đời đời
của Đức Chúa Trời chiếu theo mọi lời hứa của Ngài với Ápraham, Ysác, và Giacốp,
và rồi thờ lạy những việc của đời nầy? Chúng ta xưng sự ưu ái đời đời của Đức
Chúa Trời chiếu theo huyết của Chúa Jêsus, chúng ta nói: “từng được cứu luôn luôn được cứu”, rồi chúng ta thờ lạy
những việc của đời nầy. Như thế có khác biệt không chứ? Tôi nói các vị tiên tri
trong Cựu Ước quả thật có một sứ điệp cho chúng ta ngày nay. Và một trong các
trưởng lão của chúng tôi đã nói với tôi tuần qua: “Khi ông
đọc sách Michê, giống như thể sách ấy được ông ấy viết ra cho hội thánh ngày hôm
nay vậy”.
Đức Chúa Trời đã bảo toàn số dân sót trung tín trong Israel . Nhưng
là một người Israel
không bảo đảm bạn là một phần của dân sót ấy: “Vì
những kẻ bởi Y-sơ-ra-ên sanh hạ, chẳng phải vì đó mà hết thảy đều là người Y-sơ-ra-ên” (Rôma 9:6). Đức Chúa Trời đang bảo
toàn một số dân sót trung tín hôm nay, nhưng ở “trong nhà
thờ” không
bảo đảm bạn là một phần của dân sót ấy.
Sách các tiên tri góp phần như những nhân vật nhắc nhở thường
xuyên cho chúng ta nhớ tới thái độ quan tâm nghiêm chỉnh của Đức Chúa Trời đối
với giao ước của Ngài. Đối với những ai tuân theo mọi phép tắc của Giao Ước Mới
(kính sợ Đức Chúa Trời và yêu kẻ lân cận
như mình qua Đức Chúa Jêsus Christ), kết quả sau cùng, đời đời sẽ là phước
hạnh, mặc dầu các kết quả trong đời nầy không bảo đảm là họ đáng được khích lệ.
Tôi dám nói rằng người nào bất tuân, kết quả chỉ có thể là rủa sả mà thôi, cho
dù họ có sống thừa thãi thể nào trên thế gian nầy?